Bài viết số 1 lớp 6 đề 1 đến đề 5
Bài viết số 1 lớp 6 đề 1: Đóng vai Lạc Long Quân kể lại truyền thuyết Con rồng cháu Tiên
Dàn ý: Truyền thuyết Con rồng cháu Tiên
1. Mở bài:
Giới thiệu về bản thân: Ta là Lạc Long Quân, con trai của Thần Long Nữ, thuộc nòi Rồng.
Nơi ở: Thủy cung, biển sâu.
Năng lực: Có sức mạnh phi thường, biết nhiều phép lạ.
Hành động cao đẹp: Diệt trừ yêu quái, giúp đỡ dân lành, dạy họ trồng trọt, chăn nuôi.
2. Thân bài:
Gặp gỡ và kết duyên:
Kể lại lần đầu ta lên cạn, đi thăm thú khắp nơi.
Miêu tả vẻ đẹp của nàng Âu Cơ – con gái Thần Nông, thuộc giống Tiên.
Nàng từ non cao phương Bắc tìm đến vùng đất Lạc Việt.
Ta và nàng gặp nhau, đem lòng yêu mến và kết thành vợ chồng.
Hạnh phúc sum vầy:
Kể về việc Âu Cơ mang thai và sinh ra một cái bọc trăm trứng.
Miêu tả phép lạ: trăm trứng nở thành một trăm người con khôi ngô, tuấn tú.
Tình cảm vợ chồng và sự phát triển của đàn con: cả trăm người con không cần bú mớm mà lớn nhanh như thổi, khỏe mạnh, thông minh.
Miêu tả cuộc sống hạnh phúc, vui vầy của cả gia đình.
Cuộc chia ly:
Nói về nỗi nhớ của ta đối với thủy cung, nơi chốn của nòi Rồng.
Giải thích lý do chia ly: ta là giống Rồng ở nước, nàng là giống Tiên ở non cao, không thể sống chung lâu dài.
Ta nói chuyện với Âu Cơ, bày tỏ nỗi lòng và đề xuất giải pháp: Ta sẽ đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi.
Lời hẹn ước: Tuy xa cách nhưng khi có việc phải giúp đỡ nhau, không quên lời thề ước.
3. Kết bài:
Kể về kết quả của cuộc chia ly:
Năm mươi con theo mẹ lên núi, người con trưởng được tôn làm vua, hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu.
Ta đưa năm mươi con xuống biển, dạy họ nghề chài lưới.
Khẳng định cội nguồn: Con dân nước Việt dù ở miền xuôi hay miền ngược đều là con cháu của Rồng và Tiên, đều là anh em ruột thịt.
Lời nhắn gửi: Dù sau này có thế nào, ta và Âu Cơ mãi mãi là cha mẹ của dân tộc Việt Nam.
Truyền thuyết Con rồng cháu Tiên – Văn mẫu lớp 6 bài 1
Ta là Lạc Long Quân, vốn thuộc nòi Rồng, con trai của Thần Long Nữ, cai quản vùng đất Lạc Việt phì nhiêu. Ta sinh ra đã mang mình rồng, có sức khỏe vô địch và biết rất nhiều phép lạ. Họ hàng nhà Rồng của ta vốn quen sống dưới nước nên ta chỉ thỉnh thoảng mới lên cạn, dùng phép thần thông để diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh – những loài yêu quái bấy lâu làm hại dân lành. Thương đời sống của nhân dân còn cực khổ, ta bèn dạy họ trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở. Xong việc, ta lại về thủy cung báo hiếu với mẫu hậu của mình.
Vào một ngày đẹp trời, trong khi đang đi thăm thú dân tình, ta gặp một người con gái xinh đẹp tuyệt trần đang dạo bước. Hỏi ra mới biết nàng tên là Âu Cơ, thuộc dòng họ Thần Nông sinh sống ở vùng núi cao phương Bắc. Nghe tiếng vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng tìm đến thăm. Sau nhiều lần trò chuyện, ta và nàng đem lòng thương mến nhau rồi kết duyên vợ chồng, cùng nhau chung sống trên cạn ở cung điện Long Trang.
Ta hạnh phúc vô cùng khi ít lâu sau Âu Cơ mang thai. Sau chín tháng mười ngày, thật kì lạ, nàng sinh ra một bọc trăm trứng. Kỳ lạ hơn nữa, trăm trứng nở ra một trăm chú bé con bụ bẫm, trắng trẻo, hồng hào. Trông chúng mới đáng yêu làm sao. Bởi ta là giống Rồng, vợ ta – nàng Âu Cơ lại là giống Tiên nên những đứa con của chúng ta sinh ra không cần bú mớm mà tự lớn lên như thổi, mặt mũi khôi ngô và đứa con nào cũng có sức khỏe như ta. Từ khi có đàn con khỏe mạnh, xinh đẹp, cuộc sống của vợ chồng ta ngày càng hạnh phúc và vui vẻ. Thế nhưng không hiểu sao trong lòng ta luôn cảm thấy một nỗi trống trải không yên. Đó là nỗi niềm nhớ sông, nhớ nước, nhớ quê hương da diết.
Cuối cùng, không thể sống mãi trong nỗi nhớ nhung được nữa, ta đành từ biệt người vợ yêu và đàn con để trở về thủy cung. Ta biết nàng buồn tủi cho phận mình, nhưng ta cũng không thể sống mãi trên cạn được. Ta vốn nòi Rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng Tiên ở chốn non cao. Kẻ ở cạn, người ở nước, tính tình tập quán khác nhau khó mà ăn ở cùng nhau lâu dài được. Cuối cùng, sau bao ngày trăn trở nghĩ suy, ta quyết định nói hết tâm ý của ta cho nàng. Hiểu được suy nghĩ và những khó khăn của ta, Âu Cơ đồng ý đưa năm mươi con lên núi. Năm mươi người con còn lại theo ta xuống biển. Tuy xa cách nhưng khi có việc vẫn giúp đỡ lẫn nhau, không bao giờ quên lời hẹn ước.
Với tài năng và sức mạnh của thần, người con trưởng của ta theo mẹ được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Những đứa cháu của ta sinh ra trai thì gọi là lang, gái thì gọi là Mị Nương. Con cháu ta thay phiên nhau đời đời cai quản đất Phong Châu, cứ cha truyền con nối. Dù sống xa sông cách núi nhưng con cháu của ta luôn tự nhắc nhở nhau biết mình đều là con Rồng, cháu Tiên, phải thương yêu, giúp đỡ nhau khi khó khăn hoạn nạn.
Truyền thuyết Con rồng cháu Tiên – Văn mẫu lớp 6 bài 2
Thuở ấy, đã lâu lắm rồi, có lẽ đến hơn bốn nghìn năm về trước, lúc đất nước ta vẫn còn hoang sơ lắm. Trên đất chủ yếu là núi đồi, cỏ cây hoa lá. Trên trời hay dưới nước, ở mỗi vùng đất đều do các vị thần tiên cai quản, trông nom. Là con trai của thần Long Nữ, vị thần được thần trời giao cho cai quản vùng sông nước Lạc Việt, cha mẹ đặt tên cho ta là Lạc Long Quân. Ta luyện được rất nhiều phép lạ, có sức khỏe của giống rồng. Khi còn trẻ, ta thường hay xin phép Đức Long Vương lên trần gian thăm thú, giúp dân tiễu trừ bọn yêu tinh, dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi, cách ăn ở.
Một hôm, đang thỏa chí ngao du sơn thủy, ta say hứng quá chân lên tận vùng núi cao phương Bắc. Bỗng ta gặp một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần. Hỏi ra mới biết nàng là Âu Cơ, con gái Thần Nông. Nghe nói vùng Lạc Việt có nhiều hoa thơm, cỏ lạ, nàng xin phép cha dạo bước đến thăm. Ta cùng Âu Cơ mến cảnh hợp người, đem lòng yêu thương rồi thề ước nguyện cùng chung sống trọn đời.
Ít lâu sau, Âu Cơ có mang. Kỳ lạ thay! Đến ngày sinh nở, nàng sinh ra một cái bọc trăm trứng. Rồi trăm trứng nở ra trăm con đều đẹp đẽ, hồng hào chẳng cần bú mớm mà tự lớn lên như thổi. Vợ chồng ta hết sức vui mừng, hết lòng chăm chút cho đàn con nhỏ.
Sống ở trần thế đã lâu, ta cũng thấy nóng lòng. Ở thủy cung, cha mẹ đã già, công việc không biết ai gánh vác. Trăn trở nhiều lần, ta nghĩ: “Âu Cơ vốn thuộc dòng tiên hợp với non cao, ta lại là giống rồng quen sống nơi biển cả; tính tình, tập quán hẳn có nhiều cái khác nhau nên một cuộc biệt ly trong nay mai khó là tránh khỏi”. Ta bèn gọi trăm con cùng Âu Cơ và nói: “Ta vốn là giống rồng, nàng là giống tiên, vậy khó mà tính kế dài lâu được. Nay vì đại nghiệp và vì sự mưu sinh của trăm con, ta sẽ đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau ra mà cai quản các phương hễ có việc gì thì báo cho nhau để mà tương trợ”.
Âu Cơ nghe thấy hợp tình cũng đành nghe theo, cuộc chia ly ngậm ngùi, da diết. Ta đưa năm mươi con xuống vùng đồng bằng, dạy các con nghề biển mà an cư lập nghiệp. Âu Cơ đưa các con lên núi cao, lập con trưởng làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu, đặt nước hiệu là Văn Lang, truyền đời nối ngôi đều lấy hiệu Hùng Vương, không hề thay đổi. Sau đó rất lâu, ta và Âu Cơ không gặp lại nhau nhưng tình nghĩa vẫn không phai. Hơn thế, nghĩa “đồng bào” trong trăm con ta cũng không thay đổi. Bởi thế cho nên đến tận ngày nay, trên đất nước ta dẫu có tới trên năm mươi dân tộc, nhưng đều là anh em ruột thịt một nhà.
Truyền thuyết Con rồng cháu Tiên – Văn mẫu lớp 6 bài 3
Ngày ấy, đất nước ta còn hoang sơ lắm. Chưa có con người đông đúc như bây giờ, chỉ có các vị thần tiên cai quản đất đai, trông coi mọi việc. Ta cũng còn rất trẻ, chỉ vừa mười tám đôi mươi. Lòng khao khát khám phá thế giới, ta thường xin phép Đức Long Vương lên trần gian ngao du sơn thủy. Cảnh đẹp cùng bao hoa thơm trái ngọt chốn trần gian làm ta say mê, nhiều khi quên cả đường về. Cha ta nhiều lần phải cho người lên tìm.
Một lần ta vui chân đi quá lên thượng nguồn, bỗng bắt gặp một người con gái đẹp tuyệt trần đang đi dạo giữa bầy tiên nữ. Hỏi ra mới biết nàng tên là Âu Cơ, con gái út của vị Thần Nông trên trời chuyên lo việc trồng cấy. Nàng cũng như ta, vô cùng thích thú trước cảnh đẹp chốn trần gian. Mến cảnh mến người, ta và nàng cùng nhau thề nguyền chung thủy, lấy sợi chỉ đỏ buộc hai cổ tay để làm lễ xe tơ kết tóc.
Chẳng bao lâu sau, Âu Cơ có mang. Đủ ngày đủ tháng nàng sinh ra một cái bọc, trong có một trăm trứng, sau đó một trăm trứng lại nở ra một trăm người con dung mạo đẹp đẽ, tính nết vừa mạnh mẽ vừa hiền hòa. Chúng ta vô cùng mừng rỡ. Mải vui hạnh phúc, ta quên mất mình còn một vương quốc dưới thủy cung. Đã lâu ta không về dưới ấy, chắc cha ta mong ta lắm. Ta đang định về ít ngày rồi quay lên thì có sứ giả lên báo gấp: Cha ta đang ốm nặng, có lẽ không qua khỏi, ta phải về ngay để gánh lấy trọng trách lớn lao.
Biết giờ phút chia tay đã điểm, ta bèn gọi các con lại, sau đó nói với Âu Cơ rằng: “Âu Cơ nàng hỡi! Ta và nàng gắn bó bấy nay, thời gian tuy chưa nhiều nhưng nghĩa tình thì nước ở dòng sông này dẫu có chảy đến một nghìn năm cũng không sánh nổi. Nay ta vì đại sự mà phải trở về. Hơn nữa, ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, sống với nhau suốt đời kể cũng không thể được. Vậy ta sẽ đem năm mươi con xuống miền biển xa, để lại cho nàng năm mươi đứa. Nàng hãy cùng các con cai quản rừng núi. Nếu có chuyện gì thì báo cho nhau biết, anh em trong nhà phải hỗ trợ nhau.”
Nói rồi ta đem năm mươi người con xuống vùng đồng bằng ven biển. Sau khi dạy các con cách đắp đê ngăn mặn, trồng cấy, đánh cá… Ta về cai quản thế giới dưới Long cung. Dù xa cách nhưng ta vẫn biết, sau khi ta ra đi, Âu Cơ đã cử con trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu, lại đặt tên nước là Văn Lang. Nàng chia những người con còn lại đi trấn giữ các nơi. Thế đấy các cháu ạ. Dòng dõi người Việt là dòng dõi Rồng Tiên, các cháu đừng bao giờ quên nguồn gốc tổ tiên cao quý của mình.
Truyền thuyết Con rồng cháu Tiên – Văn mẫu lớp 6 bài 4
Ta là Lạc Long Quân, là thần thuộc nòi rồng, sống ở chốn thủy cung sâu thẳm. Nhiệm vụ của ta là diệt trừ những loài yêu quái, mang lại bình yên cho nhân dân. Ta có sức mạnh phi thường, diệt Ngư Tinh, Mộc Tinh, Hồ Tinh chỉ bằng một cái phẩy tay. Dân chúng luôn biết ơn ta. Ta chỉ thường ở dưới nước, nhưng thỉnh thoảng, ta lại lên cạn, mang theo những phép màu của biển cả để giúp đỡ con người.
Một lần lên cạn, trong khi đang du ngoạn, ta đã gặp Âu Cơ. Nàng là tiên, từ chốn non cao phương Bắc đến. Vẻ đẹp của nàng làm ta say đắm. Ta đã xin nàng ở lại cùng ta, nàng đã đồng ý và chúng ta kết duyên. Chúng ta cùng nhau chung sống tại động Long Trang, sống một cuộc sống hạnh phúc và bình yên.
Rồi một ngày, nàng Âu Cơ sinh ra một cái bọc. Ôi, một cái bọc trăm trứng! Thật kỳ lạ! Ta và nàng vô cùng ngỡ ngàng, rồi từ từ, trăm trứng đó nở ra trăm người con, khôi ngô, tuấn tú lạ thường. Các con lớn lên nhanh như thổi, khỏe mạnh và thông minh, giống hệt cha mẹ. Cuộc sống của chúng ta tràn ngập tiếng cười, tiếng nói. Ta luôn tự hào về trăm người con của mình.
Tuy nhiên, ta là rồng, ta thuộc về biển cả, nàng Âu Cơ là tiên, nàng thuộc về núi rừng. Ta nhớ nước nhớ nhà. Ta không thể sống mãi trên cạn được. Ta quyết định nói với Âu Cơ về việc này. Nàng đã hiểu và đồng ý, chấp nhận sự thật là chúng ta không thể ở bên nhau mãi mãi. Ta nói với nàng: “Ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi. Chúng ta chia nhau cai quản đất nước, để con cháu ta được sống trên khắp các miền đất của tổ quốc.”
Ta dặn dò các con phải nhớ nguồn gốc, phải đoàn kết, thương yêu nhau. Và rồi, ta mang năm mươi con xuống biển. Người con trưởng theo mẹ lên núi, được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Từ đó, con cháu ta, cả rồng và tiên, cùng nhau xây dựng và phát triển đất nước. Và tất cả chúng ta, con dân đất Việt, đều là anh em ruột thịt, là con Rồng, cháu Tiên.
Truyền thuyết Con rồng cháu Tiên – Văn mẫu lớp 6 bài 5
Các con ơi, các con có biết ta là ai không? Ta là Lạc Long Quân, cha của các con. Ta thuộc giống Rồng, sống ở dưới nước. Ta có một người mẹ tuyệt vời, tên là Thần Long Nữ. Ta có sức mạnh hơn người, biết nhiều phép lạ. Ta dùng sức mạnh đó để bảo vệ dân lành. Ta diệt Ngư Tinh, Mộc Tinh, Hồ Tinh, giúp dân trồng trọt, chăn nuôi.
Một ngày, khi ta đang lên cạn, ta gặp được người con gái đẹp nhất trần gian, tên là Âu Cơ. Nàng là Tiên, từ vùng núi cao phương Bắc đến. Ta và nàng yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chúng ta đã cưới nhau và sống cùng nhau thật hạnh phúc.
Ít lâu sau, Âu Cơ có mang. Một ngày, nàng sinh ra một cái bọc. Cái bọc đó có một trăm quả trứng. Trăm trứng đó nở ra một trăm người con, khỏe mạnh, tuấn tú. Các con không cần bú mớm mà lớn nhanh như thổi. Ta rất yêu thương các con. Gia đình chúng ta sống rất vui vẻ.
Thế nhưng, ta là Rồng, ta không thể sống mãi ở trên cạn. Ta nhớ nhà. Ta biết Âu Cơ cũng vậy, nàng là Tiên, nàng thuộc về núi cao. Ta và nàng không thể ở bên nhau mãi mãi. Vì vậy, ta đã nói với nàng về việc chia tay. Ta nói: “Ta sẽ đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi. Chúng ta sẽ chia nhau cai quản đất nước và con cái, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ quên nhau.”
Cuộc chia tay diễn ra trong sự bịn rịn. Ta đưa năm mươi con xuống biển, dạy chúng nghề biển. Âu Cơ đưa năm mươi con lên núi, lập con trưởng làm vua, đặt tên nước là Văn Lang. Từ đó, đất nước của chúng ta được dựng lên. Con cháu của ta, dù ở biển hay ở núi, đều là anh em ruột thịt.
Truyền thuyết Con rồng cháu Tiên – Văn mẫu lớp 6 bài 6
Hôm nay ta sẽ kể cho các con nghe về câu chuyện của ta. Ta là Lạc Long Quân, là con trai của Thần Long Nữ, thuộc giống Rồng. Ta sống dưới thủy cung và ta có một sức mạnh to lớn. Ta có thể dẹp tan những con quái vật nguy hiểm và giúp đỡ người dân. Ta yêu thương người dân như con cái của mình.
Một ngày, khi ta đang đi thăm thú khắp nơi, ta đã gặp một nàng tiên vô cùng xinh đẹp. Nàng tên là Âu Cơ, con gái Thần Nông, thuộc giống Tiên. Nàng từ phương Bắc đến đây. Ta và nàng đã yêu nhau ngay từ lần gặp đầu tiên. Chúng ta đã kết hôn và sống cùng nhau.
Sau đó, Âu Cơ sinh ra một cái bọc trăm trứng. Kỳ lạ thay, một trăm quả trứng đó nở ra một trăm người con. Các con lớn lên khỏe mạnh, thông minh, làm ta vô cùng tự hào. Cuộc sống của gia đình chúng ta tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Ta yêu thương vợ con vô cùng.
Nhưng cuộc sống hạnh phúc đó không kéo dài mãi mãi. Ta là giống Rồng, ta không thể sống mãi ở trên cạn. Ta nhớ biển. Ta và nàng Âu Cơ, một người ở nước, một người ở núi, không thể ở bên nhau mãi mãi. Ta đã nói với nàng rằng chúng ta phải chia tay. Ta nói: “Nàng đưa năm mươi con lên núi, ta đưa năm mươi con xuống biển. Chúng ta sẽ chia nhau cai quản và dạy dỗ các con.”
Âu Cơ rất buồn nhưng nàng đã đồng ý. Ta và Âu Cơ đã chia tay nhau và các con cũng vậy. Ta đưa năm mươi con xuống biển, dạy chúng nghề biển. Âu Cơ đưa năm mươi con lên núi, người con trưởng được lập làm vua. Và từ đó, đất nước của chúng ta được tạo ra.
Truyền thuyết Con rồng cháu Tiên – Văn mẫu lớp 6 bài 7
Ta là Lạc Long Quân, ta là con của Thần Long Nữ. Ta là một vị thần, ta có thể làm nhiều phép thuật. Ta sống dưới thủy cung nhưng ta thường lên cạn để giúp đỡ mọi người. Ta đã diệt Mộc Tinh, Ngư Tinh và Hồ Tinh. Ta dạy người dân trồng trọt, chăn nuôi.
Một ngày, khi đang đi trên đường, ta gặp Âu Cơ. Nàng là tiên nữ, con gái của Thần Nông. Nàng vô cùng xinh đẹp. Ta và nàng đã yêu nhau. Chúng ta đã cưới nhau và sống cùng nhau.
Sau đó, nàng sinh ra một cái bọc trăm trứng. Ta đã rất ngạc nhiên. Cái bọc đó nở ra một trăm người con, rất đẹp và khỏe mạnh. Các con lớn nhanh như thổi. Ta rất yêu thương các con.
Nhưng ta không thể sống mãi trên cạn được. Ta là Rồng, ta thuộc về biển. Âu Cơ là tiên, nàng thuộc về núi. Ta và nàng không thể ở bên nhau mãi mãi. Ta đã nói với nàng về điều này. Nàng đã hiểu và đồng ý. Ta đã nói: “Ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi. Chúng ta sẽ không bao giờ quên nhau.”
Âu Cơ đã rất buồn. Ta cũng vậy. Ta đã đưa năm mươi con xuống biển. Âu Cơ đưa năm mươi con lên núi. Người con trưởng được làm vua, hiệu là Hùng Vương. Từ đó, người Việt Nam có vua. Dù ở biển hay ở núi, chúng ta đều là anh em một nhà.
Truyền thuyết Con rồng cháu Tiên – Văn mẫu lớp 6 bài 8
Ta là Lạc Long Quân. Đã rất lâu rồi, ta là con trai của Thần Long Nữ. Ta sống ở dưới nước, dưới thủy cung. Ta là một vị thần, ta có thể diệt trừ những con quái vật nguy hiểm. Ta đã diệt Ngư Tinh, Mộc Tinh, Hồ Tinh, giúp người dân được sống yên ổn. Ta cũng dạy họ cách trồng trọt, chăn nuôi.
Một ngày, khi đang đi du ngoạn, ta gặp được Âu Cơ. Nàng là tiên nữ, con gái của Thần Nông. Nàng rất đẹp và hiền hậu. Ta và nàng yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chúng ta đã cưới nhau và sống cùng nhau.
Sau đó, Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng. Ôi, một trăm quả trứng! Ta rất bất ngờ. Một trăm quả trứng đó nở ra một trăm người con. Các con rất khỏe mạnh và xinh đẹp. Ta rất yêu thương các con.
Nhưng ta là Rồng, ta thuộc về biển. Âu Cơ là Tiên, nàng thuộc về núi. Chúng ta không thể sống cùng nhau mãi mãi. Ta và nàng đã quyết định chia tay. Ta nói: “Ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi. Chúng ta sẽ không bao giờ quên nhau.”
Âu Cơ rất buồn nhưng nàng đã đồng ý. Ta đưa năm mươi con xuống biển, dạy chúng nghề biển. Âu Cơ đưa năm mươi con lên núi, người con cả được lập làm vua. Và đó là cách mà đất nước của chúng ta được tạo ra. Tất cả chúng ta đều là anh em ruột thịt.
Truyền thuyết Con rồng cháu Tiên – Văn mẫu lớp 6 bài 9
Ta là Lạc Long Quân, con trai của Thần Long Nữ, thuộc giống Rồng, sống ở thủy cung. Ta có sức mạnh vô địch, có thể dẹp tan những con quái vật nguy hiểm. Ta lên cạn để giúp đỡ người dân, dạy họ cách trồng trọt, chăn nuôi.
Một ngày, ta gặp Âu Cơ. Nàng là một tiên nữ xinh đẹp, con gái của Thần Nông. Nàng từ phương Bắc đến. Ta và nàng đã yêu nhau và kết duyên vợ chồng.
Sau đó, nàng sinh ra một cái bọc, trong có một trăm trứng. Trăm trứng đó nở ra một trăm người con. Các con lớn nhanh như thổi, khỏe mạnh, thông minh. Ta rất hạnh phúc khi có một gia đình lớn như vậy.
Nhưng ta là Rồng, ta thuộc về biển. Âu Cơ là Tiên, nàng thuộc về núi. Chúng ta không thể sống mãi cùng nhau. Ta đã nói với nàng về sự thật này. Nàng đã đồng ý. Ta nói: “Ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi. Chúng ta sẽ không bao giờ quên nhau.”
Âu Cơ rất buồn nhưng nàng đã chấp nhận. Ta đưa năm mươi con xuống biển. Âu Cơ đưa năm mươi con lên núi. Người con cả được làm vua, hiệu là Hùng Vương. Từ đó, người Việt Nam chúng ta có tổ tiên là Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Truyền thuyết Con rồng cháu Tiên – Văn mẫu lớp 6 bài 10
Ta là Lạc Long Quân, ta là con của Thần Long Nữ. Ta có sức mạnh vô địch. Ta đã diệt trừ Ngư Tinh, Mộc Tinh, Hồ Tinh, giúp người dân. Ta dạy họ trồng trọt, chăn nuôi.
Một ngày, ta gặp Âu Cơ. Nàng là một tiên nữ xinh đẹp. Ta và nàng đã yêu nhau và cưới nhau.
Sau đó, nàng sinh ra một cái bọc trăm trứng. Trăm trứng nở ra một trăm người con. Các con lớn lên khỏe mạnh, tuấn tú. Ta rất hạnh phúc.
Nhưng ta là Rồng, ta thuộc về biển. Âu Cơ là Tiên, nàng thuộc về núi. Ta và nàng không thể ở bên nhau mãi mãi. Ta đã nói với nàng về điều này. Nàng đã đồng ý. Ta nói: “Ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi. Chúng ta sẽ không bao giờ quên nhau.”
Âu Cơ rất buồn nhưng nàng đã chấp nhận. Ta đưa năm mươi con xuống biển. Âu Cơ đưa năm mươi con lên núi. Người con cả được làm vua, hiệu là Hùng Vương. Từ đó, người Việt Nam chúng ta có tổ tiên là Lạc Long Quân và Âu Cơ, là con Rồng cháu Tiên.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 2: Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa
Dàn ý: Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa
A. Mở bài:
Giới thiệu câu chuyện: Sọ Dừa là một câu chuyện cổ tích quen thuộc, để lại nhiều bài học sâu sắc.
Nêu hoàn cảnh nhân vật chính: Một cặp vợ chồng già đi ở cho phú ông, hiền lành nhưng lại muộn con.
Sự việc kì lạ: Người vợ uống nước trong cái sọ dừa bên gốc cây và có thai.
B. Thân bài:
Sự ra đời và hình dáng kì dị:
Người vợ sinh ra một đứa con không có chân tay, tròn như cái sọ dừa.
Đứa bé biết nói, xin mẹ đừng vứt đi và được bà đặt tên là Sọ Dừa.
Sọ Dừa đi ở và gặp cô Út:
Sọ Dừa xin mẹ đến chăn bò thuê cho phú ông.
Phú ông đồng ý vì nghĩ Sọ Dừa không tốn công nuôi.
Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, đàn bò béo tốt.
Ba cô con gái phú ông thay phiên nhau mang cơm, hai cô chị kiêu căng, hắt hủi Sọ Dừa.
Cô Út hiền lành, nhân hậu, đối xử tốt với Sọ Dừa.
Sự thật bất ngờ và lời cầu hôn:
Cô Út phát hiện ra bí mật: Sọ Dừa biến thành một chàng trai khôi ngô, tuấn tú thổi sáo.
Sọ Dừa giục mẹ đi hỏi cưới cô Út.
Phú ông thách cưới, ra những yêu cầu rất khó.
Đúng ngày hẹn, Sọ Dừa mang đầy đủ lễ vật sang, phú ông đành phải gả cô Út.
Đám cưới và cuộc sống mới:
Trong ngày cưới, Sọ Dừa hiện nguyên hình là chàng trai tuấn tú. Mọi người đều ngạc nhiên, hai cô chị ghen tức.
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, Sọ Dừa miệt mài học hành và thi đỗ Trạng nguyên.
Sọ Dừa được nhà vua cử đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ những đồ vật để phòng thân.
Âm mưu của hai cô chị và cuộc đoàn tụ:
Hai cô chị ghen ghét, tìm cách hại cô Út.
Họ rủ cô Út chèo thuyền ra biển rồi đẩy xuống nước.
Cô Út bị cá kình nuốt, nhưng nhờ con dao mà thoát ra. Cô trôi dạt vào một hòn đảo hoang.
Sống trên đảo, cô dùng hòn đá lửa và hai quả trứng gà để sinh tồn.
Khi Sọ Dừa đi sứ về, nghe tiếng gà gáy, chàng cho thuyền vào đảo và gặp lại vợ.
C. Kết bài:
Cái kết của hai chị: Vợ chồng Sọ Dừa trở về nhà, mở tiệc ăn mừng. Hai cô chị xấu hổ, bỏ đi biệt xứ.
Bài học: Câu chuyện ca ngợi cái đẹp tâm hồn, vẻ đẹp của lòng nhân hậu, và khuyên răn con người “ở hiền gặp lành”.
Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa – Văn mẫu lớp 6 bài 1
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều câu chuyện cổ tích đặc sắc. Mỗi câu chuyện đều dạy cho chúng ta một bài học làm người ý nghĩa. Sọ Dừa chính là câu chuyện cổ tích như thế, vừa kể về cuộc đời của Sọ Dừa vừa nhắc nhở con người đạo lý sống đúng đắn.
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân nghèo đi ở cho nhà phú ông nọ. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng mãi đến năm mươi tuổi mà vẫn chưa có con. Một hôm, người vợ vào rừng hái củi. Trời nắng to, khát nước, bà nhìn thấy một cái sọ dừa đựng đầy nước mưa bên gốc cây to, liền bưng lên uống. Về nhà, bà có thai. Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn quá, định vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo: “Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.” Thương con, bà để lại nuôi và đặt tên là Sọ Dừa.
Lớn rồi Sọ Dừa vẫn như lúc nhỏ, chẳng làm được việc gì, chỉ lăn bên chân mẹ. Bà mẹ phiền lòng, than vãn. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ: “Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ nói với phú ông cho con chăn bò nhé!”. Nghe con nói, bà đánh liều đến hỏi phú ông. Ban đầu, phú ông ngần ngại vì hình dạng của Sọ Dừa, nhưng nghĩ nuôi ít tốn cơm, công chăn bò cũng ít nên ông đồng ý. Từ đó Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, đàn bò béo tốt hẳn ra.
Ngày mùa, phú ông sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt, thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em hiền lành, tốt bụng, đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế. Một hôm, đến phiên cô Út, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô Út biết Sọ Dừa không phải người trần, dần đem lòng yêu mến.
Một hôm, Sọ Dừa về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà lão sửng sốt lắm, nhưng thấy con năn nỉ mãi bà cũng chiều lòng. Phú ông thách cưới đủ mọi thứ. Không ngờ, đúng ngày hẹn, Sọ Dừa mang đầy đủ sính lễ sang nhà phú ông. Ông đành gả cô Út cho Sọ Dừa. Trong ngày cưới, Sọ Dừa hiện nguyên hình là chàng trai tuấn tú. Ai nấy đều sửng sốt, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, Sọ Dừa còn rất thông minh, thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, chàng được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn bên mình. Ganh tị với em, hai cô chị rắp tâm giết hại cô Út. Hai chị rủ cô Út chèo thuyền ra biển rồi đẩy em xuống nước. Cô Út bị cá kình nuốt, may có con dao bên mình, cô đâm chết cá. Xác cá trôi dạt vào một hòn đảo, cô lại lấy dao xẻ bụng cá chui ra. Cô dùng đá lửa nướng cá sống qua ngày, chờ thuyền đi ngang qua. Hai quả trứng cũng nở thành đôi gà đẹp bầu bạn với cô.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gáy vang: “Ò… ó… o…Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.” Quan trạng cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Về nhà, quan trạng mở tiệc mừng. Hai cô chị khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô Út rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc. Tiệc xong, quan trạng mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó biệt xứ.
Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa – Văn mẫu lớp 6 bài 2
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con. Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa đựng đầy nước mưa, bà bưng lên uống. Về nhà, bà có mang.
Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo: “Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.” Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.
Phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm! Vào ngày mùa, phú ông sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em hiền lành là đối đãi tử tế.
Một hôm đến phiên cô Út mang cơm, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên, cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô Út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy vô cùng sửng sốt. Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai, thách cưới thật nặng. Bà lão đành ra về. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ. Phú ông lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai, chỉ có cô Út cúi đầu e lệ. Phú ông đành gả cô Út cho Sọ Dừa. Trong ngày cưới, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô Út.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống rất hạnh phúc. Sọ Dừa còn rất thông minh, thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu sau, chàng được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà để hộ thân. Ganh tị, hai cô chị rắp tâm hại em. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô Út chèo thuyền ra biển rồi lừa đẩy cô xuống nước. Cô Út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, dùng dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, cặp gà cũng nở thành một đôi gà đẹp bầu bạn.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gáy to: “Ò… ó… o. Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.” Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, nhưng lại giấu vợ trong nhà. Hai cô chị khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em. Tiệc xong, quan trạng mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó biệt xứ.
Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa – Văn mẫu lớp 6 bài 3
Ngày xửa ngày xưa, ở một ngôi làng nọ, có hai vợ chồng nhà nông nghèo, chăm chỉ. Họ không có con. Một hôm, khi đi hái củi, người vợ khát nước, thấy một cái sọ dừa đựng đầy nước mưa bèn uống. Từ đó, bà mang thai. Người chồng mất, bà sinh ra một đứa con hình thù kì dị, tròn lông lốc như quả dừa. Đứa bé biết nói, xin mẹ đừng vứt đi, và được bà đặt tên là Sọ Dừa.
Sọ Dừa lớn lên vẫn tròn vo như vậy, không đi lại được. Bà mẹ buồn rầu, nhưng Sọ Dừa đã xin mẹ đi chăn bò thuê cho phú ông. Phú ông thấy cậu có hình dạng lạ, lại không có chân tay, ban đầu không đồng ý. Nhưng rồi ông nghĩ: nuôi một người chẳng tốn là bao, thôi thì để cho cậu chăn bò cũng được. Không ngờ, Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, đàn bò của phú ông con nào con nấy béo mập.
Đến ngày mùa, phú ông sai ba cô con gái thay phiên nhau mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị thấy Sọ Dừa xấu xí thì tỏ vẻ khinh miệt, hắt hủi. Chỉ có cô Út hiền lành, luôn đối xử tốt với Sọ Dừa. Một lần, cô Út mang cơm ra đồng. Từ xa, cô nghe thấy tiếng sáo du dương, lạ tai. Cô rón rén đi đến, nấp sau bụi cây thì thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi thổi sáo. Quá ngạc nhiên, cô định lên tiếng thì chàng trai biến mất, chỉ còn lại Sọ Dừa nằm đó. Cô Út hiểu ra Sọ Dừa không phải người thường, cô đem lòng yêu mến Sọ Dừa.
Về nhà, Sọ Dừa xin mẹ sang hỏi cưới cô Út. Bà mẹ ngạc nhiên nhưng vẫn chiều lòng con. Bà đến nhà phú ông ngỏ lời. Phú ông cười lớn, đưa ra những điều kiện thách cưới khó khăn. Bà mẹ trở về, thất vọng kể lại. Nhưng Sọ Dừa nói với mẹ rằng sẽ có đủ lễ vật. Đúng ngày hẹn, một đoàn người mang lễ vật lộng lẫy đến nhà phú ông, khiến ông và mọi người trong nhà đều kinh ngạc. Phú ông gọi ba cô con gái ra, hai cô chị từ chối, chỉ có cô Út đồng ý.
Đám cưới diễn ra thật linh đình. Khi Sọ Dừa bước ra, mọi người mới ngỡ ngàng: Sọ Dừa đã biến thành một chàng trai tuấn tú. Ai nấy đều trầm trồ, khen ngợi. Hai cô chị thì tiếc nuối và ghen tức. Vợ chồng Sọ Dừa sống hạnh phúc. Chàng miệt mài học hành và thi đỗ trạng nguyên, được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ ba thứ: một con dao, một hòn đá lửa và hai quả trứng gà, dặn vợ giữ gìn cẩn thận.
Lợi dụng Sọ Dừa đi vắng, hai cô chị rủ cô Út ra biển chơi rồi đẩy em xuống nước. Cô Út bị cá kình nuốt, nhưng nhờ có con dao, cô đâm chết cá rồi bơi được vào một hòn đảo hoang. Cô dùng đá lửa nướng cá ăn, hai quả trứng cũng nở thành hai con gà. Một hôm, cô nghe thấy tiếng gà gáy: “Ò… ó… o… phải thuyền quan trạng rước cô tôi về”. Cô biết là Sọ Dừa đã về. Chàng Trạng cho thuyền vào đón vợ. Hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Về nhà, Sọ Dừa mời mọi người ăn tiệc, không cho ai biết cô Út đã trở về. Hai cô chị đến, kể lể về cái chết của em. Sọ Dừa cho gọi vợ ra, hai cô chị xấu hổ quá, lặng lẽ bỏ đi biệt xứ.
Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa – Văn mẫu lớp 6 bài 4
Xưa kia, có một bà lão nghèo, đã lớn tuổi mà không có con. Một lần, bà vào rừng hái củi, khát nước quá, bà thấy một cái sọ dừa đựng đầy nước mưa nên uống. Bà về nhà, từ đó có thai. Ít lâu sau, chồng bà mất. Bà sinh ra một đứa con kì lạ, không có chân tay, mình mẩy tròn lông lốc như cái sọ dừa. Bà định vứt đi nhưng đứa bé biết nói, xin bà hãy giữ lại. Bà thương tình, đặt tên là Sọ Dừa.
Sọ Dừa lớn lên vẫn chỉ là một cái sọ dừa tròn trĩnh, không làm được gì. Bà mẹ buồn rầu, nhưng Sọ Dừa đã xin mẹ đi chăn bò cho nhà phú ông. Thấy Sọ Dừa kì dị, phú ông không muốn nhận nhưng rồi cũng đồng ý vì nghĩ Sọ Dừa không tốn cơm. Ai ngờ Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, đàn bò con nào cũng béo tốt.
Ba cô con gái phú ông thay nhau mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị xấu tính, kiêu căng thì hắt hủi, trêu chọc cậu. Chỉ có cô Út hiền lành là luôn đối xử tử tế, đem lòng yêu quý cậu. Một lần, cô Út mang cơm ra đồng, thấy có tiếng sáo du dương. Cô nấp sau bụi cây và thấy một chàng trai tuấn tú đang thổi sáo. Chàng trai đó không ai khác chính là Sọ Dừa. Từ đó, cô Út biết Sọ Dừa là một người tài giỏi, không giống với vẻ bề ngoài.
Sọ Dừa bảo mẹ đến hỏi cưới cô Út. Bà mẹ ngại ngùng nhưng cũng làm theo. Phú ông thách cưới bằng những sính lễ quý giá. Bà mẹ tưởng không thể lo được, nhưng Sọ Dừa đã làm nên điều kì diệu: đúng ngày hẹn, một đoàn người mang đủ sính lễ đến nhà phú ông. Phú ông vô cùng ngạc nhiên, đành phải gả con gái cho Sọ Dừa.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa lột bỏ lớp vỏ xấu xí, hiện nguyên hình là một chàng trai khôi ngô, tuấn tú. Hai cô chị ngạc nhiên, ghen tị. Sau đám cưới, Sọ Dừa học hành chăm chỉ, thi đỗ trạng nguyên và được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà để phòng thân.
Hai cô chị ghen ghét, rắp tâm hại cô Út. Lợi dụng lúc Sọ Dừa vắng nhà, họ rủ cô Út ra biển chơi rồi đẩy xuống nước. Cô bị cá kình nuốt, nhưng nhờ con dao, cô thoát ra và dạt vào một hòn đảo. Cô dùng đá lửa nướng cá ăn, hai quả trứng nở thành hai con gà. Khi Sọ Dừa đi sứ về, nghe tiếng gà gáy, chàng nhận ra vợ mình và cho thuyền vào đón. Hai vợ chồng sum vầy, còn hai cô chị thì xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa – Văn mẫu lớp 6 bài 5
Câu chuyện Sọ Dừa là một câu chuyện cổ tích quen thuộc, mang đến nhiều bài học ý nghĩa. Chuyện kể rằng, có một bà lão nghèo, không có con. Một hôm, bà uống nước trong một cái sọ dừa và từ đó mang thai, sinh ra một đứa con tròn lông lốc như cái sọ. Bà đặt tên con là Sọ Dừa và nuôi nấng.
Lớn lên, Sọ Dừa xin mẹ đi chăn bò thuê cho phú ông. Phú ông đồng ý. Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Ba cô con gái của phú ông thay phiên nhau mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị hống hách, kiêu ngạo, thường đối xử tệ bạc với Sọ Dừa. Ngược lại, cô Út lại hiền lành, nhân hậu, luôn đối xử tử tế. Một lần, cô Út thấy một chàng trai tuấn tú đang thổi sáo cho đàn bò. Cô biết chàng trai đó chính là Sọ Dừa và đem lòng yêu mến.
Sọ Dừa xin mẹ đến nhà phú ông hỏi cưới cô Út. Phú ông thách cưới, nhưng Sọ Dừa đã lo đủ lễ vật, khiến phú ông phải gả con gái. Đám cưới diễn ra, Sọ Dừa lột bỏ lớp vỏ, hiện nguyên hình là một chàng trai khôi ngô. Hai cô chị vừa ghen tị vừa tiếc nuối. Sau khi cưới, Sọ Dừa học hành đỗ trạng nguyên, được vua cử đi sứ.
Hai cô chị ghen ghét, tìm cách hại cô Út. Chúng đẩy cô xuống biển. Cô bị cá kình nuốt. Nhờ có con dao Sọ Dừa đưa cho, cô thoát ra và trôi dạt vào một hòn đảo hoang. Tại đó, cô sống bằng cách nướng cá, và hai quả trứng Sọ Dừa đưa cũng nở thành gà. Sọ Dừa đi sứ về, nghe tiếng gà gáy và nhận ra vợ mình. Hai vợ chồng gặp lại nhau, hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa – Văn mẫu lớp 6 bài 6
Ngày xưa, có một bà lão nông dân nghèo. Một hôm, bà uống nước trong một cái sọ dừa và sinh ra một đứa con trai kì lạ, không có tay chân. Bà đặt tên con là Sọ Dừa.
Sọ Dừa xin mẹ đi chăn bò cho nhà phú ông. Phú ông thấy Sọ Dừa có hình thù kì dị nên rất ngại, nhưng thấy cậu nói năng lanh lợi nên cũng đồng ý. Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Đàn bò con nào con nấy béo mập, khỏe mạnh.
Ba cô con gái của phú ông thay nhau mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kiêu căng, độc ác, thường hắt hủi Sọ Dừa. Cô Út hiền lành, nhân hậu, luôn đối xử tử tế với Sọ Dừa. Một lần, cô Út thấy Sọ Dừa biến thành một chàng trai tuấn tú, ngồi trên võng thổi sáo cho đàn bò. Cô biết Sọ Dừa là người tài giỏi, và cô yêu Sọ Dừa.
Sọ Dừa xin mẹ đến nhà phú ông hỏi cưới cô Út. Phú ông thách cưới rất nhiều lễ vật, nhưng Sọ Dừa đã lo đủ. Ông đành phải gả cô Út. Trong đám cưới, Sọ Dừa hiện nguyên hình là chàng trai tuấn tú. Hai cô chị ghen tị và tiếc nuối. Sọ Dừa học hành chăm chỉ, thi đỗ trạng nguyên, được vua sai đi sứ.
Hai cô chị ghen ghét, tìm cách hại cô Út. Chúng rủ cô Út ra biển chơi và đẩy xuống nước. Cô bị cá kình nuốt chửng, nhưng nhờ con dao mà Sọ Dừa đưa, cô đã thoát ra. Cô trôi dạt vào một hòn đảo hoang, sống bằng cách nướng cá. Hai quả trứng cũng nở thành hai con gà. Khi Sọ Dừa đi sứ về, nghe tiếng gà gáy: “Ò… ó… o… phải thuyền quan trạng rước cô tôi về”, chàng cho thuyền vào đón cô Út. Hai vợ chồng đoàn tụ. Hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa – Văn mẫu lớp 6 bài 7
Thuở ấy, có hai vợ chồng nhà nông nghèo, hiền lành nhưng không có con. Một hôm, người vợ vào rừng hái củi, khát nước, thấy cái sọ dừa đựng nước bên gốc cây to bèn uống. Từ đó bà mang thai. Người chồng mất, bà sinh ra một đứa con tròn như quả dừa, không có tay chân. Bà đặt tên là Sọ Dừa.
Sọ Dừa lớn lên, không làm được việc gì. Bà mẹ lo lắng, nhưng Sọ Dừa đã xin đi chăn bò cho phú ông. Phú ông đồng ý. Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, khiến đàn bò béo tốt. Ba cô con gái của phú ông thay phiên nhau mang cơm. Hai cô chị kiêu ngạo, hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô Út hiền lành đối xử tử tế. Một lần, cô Út phát hiện Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú. Cô đem lòng yêu Sọ Dừa.
Sọ Dừa nhờ mẹ sang hỏi cưới cô Út. Phú ông thách cưới với nhiều lễ vật quý giá. Sọ Dừa lo đủ lễ vật, khiến phú ông phải gả cô Út. Trong đám cưới, Sọ Dừa lột bỏ lớp vỏ, hiện nguyên hình là một chàng trai khôi ngô. Hai cô chị tức tối, ghen ghét. Sọ Dừa học giỏi, thi đỗ trạng nguyên và được cử đi sứ.
Hai cô chị ghen tị, rắp tâm hại cô Út. Chúng rủ cô Út ra biển chơi và đẩy xuống. Cô bị cá kình nuốt, nhưng nhờ con dao, cô thoát ra và trôi dạt vào một hòn đảo. Sọ Dừa trở về, nghe tiếng gà gáy: “Ò… ó… o… phải thuyền quan trạng rước cô tôi về”, chàng nhận ra vợ mình và đón cô về. Vợ chồng Sọ Dừa sống hạnh phúc, hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa – Văn mẫu lớp 6 bài 8
Ngày xửa ngày xưa, có một bà lão nghèo, không con. Một lần, bà uống nước trong cái sọ dừa và có thai. Bà sinh ra một đứa con không có tay chân, hình thù như cái sọ dừa. Bà đặt tên con là Sọ Dừa. Sọ Dừa lớn lên, xin mẹ đi chăn bò thuê cho nhà phú ông.
Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, đàn bò béo khỏe. Ba cô con gái phú ông thay phiên nhau mang cơm. Hai cô chị kiêu căng, hắt hủi Sọ Dừa, còn cô Út hiền lành, đối xử tử tế. Cô Út phát hiện Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú. Cô đem lòng yêu Sọ Dừa. Sọ Dừa nhờ mẹ sang hỏi cưới cô Út. Phú ông thách cưới bằng những lễ vật quý giá, nhưng Sọ Dừa đã lo đủ. Phú ông đành gả con.
Đám cưới diễn ra, Sọ Dừa hiện nguyên hình là một chàng trai đẹp trai. Hai cô chị ghen ghét, tiếc nuối. Sọ Dừa học hành chăm chỉ, đỗ trạng nguyên. Chàng được vua cử đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà để phòng thân.
Hai cô chị ghen ghét, rủ cô Út ra biển và đẩy xuống. Cô Út bị cá kình nuốt, nhưng nhờ con dao, cô thoát ra và trôi dạt vào một hòn đảo. Sọ Dừa đi sứ về, nghe tiếng gà gáy, nhận ra vợ mình và cho thuyền vào đón. Hai vợ chồng đoàn tụ, còn hai cô chị thì xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa – Văn mẫu lớp 6 bài 9
Câu chuyện Sọ Dừa kể về một bà lão nghèo, muộn con. Bà có thai sau khi uống nước trong một cái sọ dừa và sinh ra một đứa con kì lạ, không có tay chân, tròn như quả dừa. Bà đặt tên là Sọ Dừa. Sọ Dừa lớn lên xin mẹ đi chăn bò cho phú ông.
Phú ông đồng ý. Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Ba cô con gái phú ông mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị độc ác, hắt hủi cậu. Cô Út hiền lành thì lại đối xử tốt. Cô Út phát hiện bí mật Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú. Cô Út đem lòng yêu Sọ Dừa.
Sọ Dừa nhờ mẹ sang hỏi cưới cô Út. Phú ông thách cưới, nhưng Sọ Dừa đã lo đủ lễ vật. Đám cưới diễn ra, Sọ Dừa hiện nguyên hình. Hai cô chị ghen tị. Sọ Dừa học đỗ trạng nguyên, được vua cử đi sứ.
Hai cô chị ghen ghét, tìm cách hại cô Út. Họ đẩy cô Út xuống biển. Cô bị cá kình nuốt, nhưng nhờ con dao, cô thoát ra. Cô trôi dạt vào một hòn đảo, sống bằng cách nướng cá. Hai quả trứng cũng nở thành hai con gà. Sọ Dừa đi sứ về, nghe tiếng gà gáy, nhận ra vợ mình và đón cô về. Vợ chồng đoàn tụ, hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Kể lại một câu chuyện cổ tích Sọ Dừa – Văn mẫu lớp 6 bài 10
Ngày xưa, có hai vợ chồng nhà nông nghèo đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có con. Một hôm, người vợ uống nước trong cái sọ dừa và mang thai. Người chồng mất, bà sinh ra một đứa con hình thù kì dị, tròn lông lốc như quả dừa. Bà đặt tên là Sọ Dừa.
Sọ Dừa lớn lên xin mẹ đi chăn bò cho phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, đàn bò của phú ông béo tốt hẳn ra. Ba cô con gái phú ông thay phiên nhau mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị kiêu căng, ác nghiệt, còn cô Út thì hiền lành, đối xử tử tế. Một lần, cô Út phát hiện ra Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú. Cô đem lòng yêu mến Sọ Dừa.
Sọ Dừa nhờ mẹ đến hỏi cưới cô Út. Phú ông thách cưới, nhưng Sọ Dừa đã lo đủ lễ vật. Phú ông đành phải gả cô Út. Đám cưới diễn ra, Sọ Dừa hiện nguyên hình là một chàng trai khôi ngô. Hai cô chị ghen tị. Sọ Dừa học hành chăm chỉ, thi đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ.
Lợi dụng lúc Sọ Dừa vắng nhà, hai cô chị rủ cô Út ra biển chơi rồi đẩy xuống nước. Cô Út bị cá kình nuốt chửng, nhưng nhờ con dao mà Sọ Dừa đưa, cô thoát ra và trôi dạt vào một hòn đảo. Sọ Dừa đi sứ về, nghe tiếng gà gáy: “Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về”, chàng nhận ra vợ và cho thuyền vào đón. Vợ chồng đoàn tụ, hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 3: Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh
Dàn ý: Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh
I. Mở bài:
Giới thiệu nhân vật chính: Vua Hùng Vương thứ mười tám có người con gái xinh đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương.
Nêu vấn đề: Vua cha muốn kén cho nàng một người chồng tài giỏi, xứng đáng với dung mạo và đức hạnh của nàng.
II. Thân bài:
Hai vị thần đến cầu hôn:
Giới thiệu Sơn Tinh – thần cai quản vùng núi Tản Viên: tài năng kì diệu, có thể dời núi lấp biển.
Giới thiệu Thủy Tinh – thần cai quản vùng biển cả: tài phép vô cùng, có thể hô mưa gọi gió, tạo nên sóng to gió lớn.
Cuộc thách đấu:
Vua Hùng băn khoăn, không biết chọn ai vì cả hai đều tài giỏi.
Nhà vua quyết định đưa ra sính lễ và điều kiện: Ai mang đủ sính lễ đến trước sẽ được rước Mị Nương về.
Các lễ vật: voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi cùng một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng.
Cuộc rước dâu và cuộc chiến:
Sơn Tinh đến sớm hơn, mang đủ sính lễ. Chàng rước Mị Nương về núi Tản Viên.
Thủy Tinh đến sau, không lấy được Mị Nương thì đùng đùng nổi giận.
Thủy Tinh dâng nước, hô mưa gọi gió, tạo ra lũ lụt để đánh Sơn Tinh, hòng cướp lại Mị Nương.
Sơn Tinh dùng phép thuật để chống trả: chàng bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi để ngăn nước.
Cuộc chiến kéo dài nhiều tháng trời, rất dữ dội và cam go.
Sự thất bại của Thủy Tinh:
Sức của Thủy Tinh đã kiệt, nước đã rút. Thần đành phải rút quân về.
Sơn Tinh và Mị Nương sống hạnh phúc.
III. Kết bài:
Nêu kết quả cuối cùng: Hàng năm, Thủy Tinh vẫn dâng nước để trả thù, nhưng năm nào cũng thất bại.
Ý nghĩa câu chuyện: Giải thích hiện tượng lũ lụt, ca ngợi sức mạnh của nhân dân ta trong việc chống lại thiên tai.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Văn mẫu lớp 6 bài 1
Trong những câu chuyện truyền thuyết, em thích nhất là “Sơn Tinh, Thủy Tinh”. Câu chuyện lí giải hiện tượng lũ lụt xảy ra hàng năm ở nước ta, đồng thời là một câu chuyện hấp dẫn và đầy kịch tính.
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Nàng không chỉ xinh đẹp mà còn hiền dịu, nết na. Nhà vua yêu thương nàng hết mực, muốn kén cho con một người chồng xứng đáng. Tiếng đồn về sắc đẹp của Mị Nương lan truyền khắp nơi, thu hút biết bao anh hùng hào kiệt. Một hôm, có hai chàng trai vô cùng tài giỏi đến cầu hôn. Một người tự xưng là Sơn Tinh, thần cai quản vùng núi Tản Viên. Chàng có phép dời non, lấp biển, vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên những dãy núi đồi. Một người tự xưng là Thủy Tinh, thần cai quản vùng biển cả. Chàng có tài hô mưa gọi gió, chỉ cần vung tay là nước dâng lên cuồn cuộn. Vua Hùng băn khoăn, không biết phải chọn ai, đành ra một điều kiện: “Ai mang lễ vật đến trước, ta sẽ gả Mị Nương cho người đó”. Lễ vật thách cưới gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sáng hôm sau, khi mặt trời còn chưa lên, Sơn Tinh đã mang đầy đủ sính lễ đến trước. Chàng rước Mị Nương về núi Tản Viên. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ thì nổi giận, hô mưa gọi gió, làm nước sông dâng lên cuồn cuộn, nhấn chìm nhà cửa, ruộng đồng. Thủy Tinh dâng nước cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại dời núi cao bấy nhiêu. Trận chiến kéo dài mấy tháng liền, cuối cùng Thủy Tinh kiệt sức, đành phải rút quân.
Từ đó, hàng năm, Thủy Tinh vẫn dâng nước để trả thù, nhưng năm nào cũng thất bại. Câu chuyện đã lý giải hiện tượng lũ lụt, đồng thời ca ngợi ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân ta trong công cuộc chống lại thiên tai.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Văn mẫu lớp 6 bài 2
Vua Hùng thứ mười tám có người con gái xinh đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương. Vua rất thương con và muốn tìm cho nàng một người chồng xứng đáng. Tiếng tăm về người con gái đẹp người đẹp nết vang xa tới tận núi Tản Viên và biển cả. Một buổi sáng, Sơn Tinh – vị thần của núi và đất, cưỡi hổ trắng oai phong lẫm liệt đến cầu hôn Mị Nương. Cũng ngày hôm đó, một chàng trai cưỡi rồng nước uy nghi, tự xưng là Thủy Tinh cũng đến cầu hôn.
Vua Hùng băn khoăn, ai cũng tài giỏi, biết gả con gái yêu cho ai bây giờ? Cuối cùng, vua quyết định, hai người phải so tài. Lập tức, Thủy Tinh hô mưa gọi gió, sấm chớp nổ đùng đùng, cả thành Phong Châu như muốn nổ tung vì lũ quét. Sơn Tinh cũng chẳng thua kém, chàng chỉ tay về phía Đông, phía Đông mọc núi đồi, chàng chỉ tay về phía Tây, phía Tây nổi cồn bãi. Vua Hùng sau đó đưa ra một điều kiện: “Ngày mai, ai đến sớm, mang được đầy đủ một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao sẽ được đón Mị Nương về làm vợ”.
Sáng hôm sau, khi tia nắng đầu tiên của ngày mới chưa xuất hiện, Sơn Tinh cùng đoàn tùy tùng đã đến rước Mị Nương về núi Tản. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ liền đùng đùng nổi giận, sai đoàn thủy quái đánh đuổi Sơn Tinh. Trời đất tối sầm, nước dâng lên cuồn cuộn nhấn chìm mọi nhà cửa ruộng đồng. Sơn Tinh cùng quân lính liên tục ném đá vào lũ thủy quái. Thủy Tinh dâng nước cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại dâng núi cao bấy nhiêu. Trận chiến diễn ra hết ngày này sang ngày khác. Thủy Tinh dần kiệt sức, đành phải rút quân về. Mọi người xuống núi dựng lại nhà cửa, vỡ ruộng khai hoang.
Từ đó, năm nào Thủy Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng đều thua trận. Câu chuyện không chỉ giải thích hiện tượng lũ lụt mà còn cho thấy nếu đồng lòng, chúng ta có thể làm được mọi việc.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Văn mẫu lớp 6 bài 3
Trong các truyền thuyết đã được học ở lớp 6, em thích nhất truyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh”. Câu chuyện có nhiều chi tiết tưởng tượng kì ảo đã góp phần thêm sinh động cho cuộc cầu hôn đầy gay cấn để tranh giành nàng Mị Nương xinh đẹp giữa hai vị thần Sơn Tinh và Thủy Tinh.
Hồi đó, vua Hùng Vương thứ mười tám có duy nhất một nàng công chúa xinh đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương. Năm ấy, nàng đã đến tuổi lấy chồng, nhà vua muốn kén cho con gái mình một chàng rể thật tài ba. Hay tin nhà vua kén rể, thần núi Tản Viên là Sơn Tinh và thần nước Thủy Tinh đều đến thành Phong Châu để cầu hôn. Sơn Tinh có phép lạ: vẫy tay về phía Đông, phía Đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía Tây, nơi đó mọc lên từng dãy núi đồi. Thủy Tinh cũng không kém phần thần thông, chàng ta có thể hô mưa gọi gió.
Hùng Vương phân vân vì hai người đều vừa lòng vua, liền mời các Lạc hầu vào bàn chuyện. Xong, vua phán: “Hai chàng đều xứng đáng làm con rể ta, nhưng ta chỉ có một người con gái không thể lấy cả hai được. Thôi thì ngày mai ai đem sính lễ tới trước, ta sẽ gả con gái cho. Sính lễ gồm có: Một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.”
Sáng hôm sau, đã thấy Sơn Tinh đến, đem đầy đủ lễ vật và rước được Mị Nương về. Mãi đến gần trưa Thủy Tinh mới đến, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, thần hóa phép đuổi đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh hô mưa gọi gió, làm thành dông bão, nước từ biển cuồn cuộn chảy ngược về đất liền. Nước mỗi lúc một cao, làm ngập cả ruộng đồng, nhà cửa. Sơn Tinh không hề nao núng. Chàng dùng phép bốc từng dãy núi, ngọn đồi đắp thành một con đê khổng lồ, vững chắc ngăn dòng nước lũ.
Cuộc chiến kéo dài mấy tháng trời, Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã đuối, thần liền rút quân về. Từ đó, oán nặng thù sâu, hàng năm, Thủy Tinh vẫn thường dâng nước đánh Sơn Tinh hòng cướp được Mị Nương. Nhưng năm nào cũng vậy, Thủy Tinh vẫn không thắng nổi, đành rút quân về. Truyện phần nào giúp em hiểu rõ hơn về hiện tượng bão lũ hằng năm, ước mơ chế ngự thiên tai của người Việt cổ.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Văn mẫu lớp 6 bài 4
Ngày xưa, vua Hùng thứ mười tám có một người con gái đẹp nổi tiếng, tên là Mị Nương. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng, nết na, khiến ai cũng yêu mến. Vua cha thương con, muốn chọn cho nàng một người chồng xứng đáng. Tiếng đồn về Mị Nương đến tai hai vị thần: Sơn Tinh và Thủy Tinh. Cả hai cùng đến cầu hôn.
Sơn Tinh là thần núi Tản Viên. Chàng có tài dời non lấp biển. Thủy Tinh là thần biển, tài ba không kém, có thể hô mưa gọi gió. Vua Hùng thấy cả hai đều xứng đáng nên không biết chọn ai. Để công bằng, vua ra điều kiện thách cưới. Sính lễ gồm voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao cùng nhiều đồ ăn thức uống. Vua Hùng nói: “Ai mang lễ vật đến trước, ta sẽ gả con gái cho.”
Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đã đến đủ sính lễ. Vua Hùng giữ lời hứa, gả Mị Nương cho chàng. Sơn Tinh rước Mị Nương về núi. Thủy Tinh đến sau, thấy Mị Nương đã theo chồng, vô cùng tức giận. Thần dâng nước, hô mưa gọi gió, khiến lũ lụt tràn về. Nước dâng lên cao, ngập cả ruộng đồng, nhà cửa. Sơn Tinh không hề nao núng, dùng phép bốc từng quả đồi, dãy núi để chặn nước. Nước dâng lên bao nhiêu, núi lại cao lên bấy nhiêu.
Hai bên đánh nhau suốt mấy tháng ròng. Cuối cùng, Thủy Tinh kiệt sức, phải rút quân về. Từ đó, năm nào Thủy Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng đều thất bại. Câu chuyện giải thích cho chúng ta vì sao hằng năm ở miền Bắc nước ta lại có lũ lụt.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Văn mẫu lớp 6 bài 5
Hùng Vương thứ mười tám có nàng công chúa Mị Nương xinh đẹp. Vua muốn kén rể cho nàng. Mọi người đều biết về vẻ đẹp của Mị Nương. Sơn Tinh và Thủy Tinh cùng đến cầu hôn. Sơn Tinh là thần núi, có thể dời non lấp biển. Thủy Tinh là thần nước, có thể hô mưa gọi gió.
Vua Hùng thấy hai vị thần đều tài giỏi, không biết chọn ai. Cuối cùng, vua ra điều kiện: ai mang đủ sính lễ đến sớm thì được cưới Mị Nương. Sính lễ bao gồm những thứ quý hiếm như voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh đến sớm. Chàng mang đủ lễ vật và được rước Mị Nương về. Thủy Tinh đến sau, không lấy được Mị Nương thì vô cùng tức giận. Thủy Tinh dâng nước lên cao để đánh Sơn Tinh. Nước dâng lên bao nhiêu, Sơn Tinh lại dời núi cao lên bấy nhiêu. Trận chiến diễn ra dữ dội. Cuối cùng, Thủy Tinh kiệt sức và phải rút quân về.
Hàng năm, Thủy Tinh lại dâng nước lên đánh Sơn Tinh để trả thù. Nhưng năm nào chàng cũng thua cuộc. Câu chuyện là một lời giải thích cho hiện tượng bão lũ hàng năm ở nước ta.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Văn mẫu lớp 6 bài 6
Hàng năm, khi mùa mưa bão về, nước sông dâng cao, em lại nhớ đến câu chuyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh”. Truyền thuyết kể rằng, vua Hùng thứ mười tám có người con gái xinh đẹp tuyệt trần là Mị Nương. Vua muốn tìm cho nàng một người chồng xứng đáng.
Sơn Tinh và Thủy Tinh cùng đến cầu hôn. Sơn Tinh là thần núi, có thể dời núi lấp biển. Thủy Tinh là thần nước, có thể hô mưa gọi gió. Vua Hùng băn khoăn, không biết chọn ai. Vua quyết định: “Ai mang sính lễ đến trước sẽ được cưới Mị Nương”. Lễ vật gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.
Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đã đến. Chàng mang đủ lễ vật và rước Mị Nương về. Thủy Tinh đến sau, tức giận, dâng nước lên cao để đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh dâng nước cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại dời núi cao bấy nhiêu. Trận chiến kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, Thủy Tinh kiệt sức, đành rút quân.
Từ đó, năm nào Thủy Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng lần nào cũng thất bại. Câu chuyện giúp chúng ta hiểu rằng, thiên nhiên có thể gây ra lũ lụt, nhưng con người luôn có cách để chống lại.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Văn mẫu lớp 6 bài 7
Ngày xưa, ở nước Văn Lang, vua Hùng thứ mười tám có một nàng công chúa xinh đẹp tên là Mị Nương. Vua muốn kén rể cho nàng. Sơn Tinh, thần núi Tản Viên và Thủy Tinh, thần biển cả, cùng đến cầu hôn. Sơn Tinh có phép dời núi, lấp sông. Thủy Tinh có tài hô mưa gọi gió.
Vua Hùng thấy cả hai đều tài giỏi nên ra điều kiện: ai mang đủ sính lễ đến sớm sẽ được cưới Mị Nương. Sính lễ gồm voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao. Sáng hôm sau, Sơn Tinh đến trước. Chàng rước Mị Nương về núi. Thủy Tinh đến sau, không lấy được Mị Nương thì vô cùng tức giận.
Thủy Tinh hô mưa, gọi gió, làm nước dâng lên để đánh Sơn Tinh. Nước ngập cả đồng bằng. Sơn Tinh dùng phép thuật để dời núi, chặn nước. Nước dâng đến đâu, núi dâng lên đến đó. Hai bên đánh nhau dữ dội. Cuối cùng, Thủy Tinh phải rút quân về.
Hàng năm, Thủy Tinh vẫn dâng nước đánh Sơn Tinh để trả thù. Nhưng năm nào cũng vậy, Thủy Tinh đều thất bại. Câu chuyện này giúp chúng ta hiểu được sự kiên cường của nhân dân ta khi chống lại thiên tai.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Văn mẫu lớp 6 bài 8
Vua Hùng thứ mười tám có người con gái tên là Mị Nương, đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua muốn kén rể cho nàng. Hai vị thần, Sơn Tinh và Thủy Tinh, cùng đến cầu hôn. Sơn Tinh có tài dời núi lấp biển. Thủy Tinh có tài hô mưa gọi gió.
Vua Hùng băn khoăn, không biết chọn ai. Vua ra điều kiện: ai mang lễ vật đến sớm sẽ được cưới Mị Nương. Sính lễ là những con vật quý hiếm: voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao. Sáng sớm, Sơn Tinh đã đến. Chàng mang đủ sính lễ và rước Mị Nương về núi.
Thủy Tinh đến sau, không lấy được Mị Nương thì tức giận. Chàng dâng nước để đánh Sơn Tinh. Nước dâng lên đến đâu, Sơn Tinh lại dời núi lên đến đó. Trận chiến kéo dài. Cuối cùng, Thủy Tinh kiệt sức, đành phải rút quân.
Hàng năm, Thủy Tinh vẫn dâng nước lên để trả thù. Nhưng năm nào chàng cũng thất bại. Câu chuyện cho thấy ý chí kiên cường của con người trong việc chống lại thiên tai.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Văn mẫu lớp 6 bài 9
Em rất thích câu chuyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh” vì nó rất hấp dẫn và có ý nghĩa sâu sắc. Chuyện kể về nàng công chúa Mị Nương của vua Hùng thứ mười tám. Nàng đẹp người đẹp nết, khiến cả Sơn Tinh và Thủy Tinh cùng đến cầu hôn.
Sơn Tinh là thần núi, có thể dời non lấp biển. Thủy Tinh là thần biển, có thể hô mưa gọi gió. Vua Hùng ra điều kiện thách cưới để chọn rể: ai mang đủ voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao đến sớm thì được cưới Mị Nương.
Sơn Tinh đến sớm và rước Mị Nương về núi. Thủy Tinh đến sau, tức giận, dâng nước lên cao để đánh Sơn Tinh. Nước dâng bao nhiêu, Sơn Tinh lại dời núi cao bấy nhiêu. Trận chiến diễn ra dữ dội. Cuối cùng, Thủy Tinh thua cuộc và phải rút quân.
Từ đó, hàng năm, Thủy Tinh vẫn dâng nước để trả thù, nhưng năm nào cũng thất bại. Câu chuyện giải thích hiện tượng lũ lụt hàng năm ở nước ta và ca ngợi sức mạnh của con người trong việc chống lại thiên nhiên.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh – Văn mẫu lớp 6 bài 10
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái xinh đẹp tên là Mị Nương. Vua muốn kén rể cho con. Hai chàng trai tài giỏi, Sơn Tinh và Thủy Tinh, cùng đến cầu hôn. Sơn Tinh là thần núi, có tài phép dời núi lấp biển. Thủy Tinh là thần biển, có tài phép hô mưa gọi gió.
Vua Hùng băn khoăn không biết chọn ai. Vua ra điều kiện: ai mang đủ sính lễ đến sớm sẽ được cưới Mị Nương. Sính lễ gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh đã đến sớm và rước Mị Nương về. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ thì nổi giận. Chàng dâng nước, tạo ra lũ lụt để đánh Sơn Tinh. Nước dâng đến đâu, Sơn Tinh dời núi, đắp đất đến đó. Trận chiến kéo dài. Cuối cùng, Thủy Tinh kiệt sức, phải rút quân về.
Hàng năm, Thủy Tinh vẫn dâng nước để đánh Sơn Tinh nhưng năm nào cũng thất bại. Câu chuyện này giúp chúng ta hiểu thêm về sự dũng cảm và kiên cường của cha ông ta trong việc chống lại thiên tai.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 4: Kể lại truyện Thánh Gióng
Dàn ý: Kể lại truyện Thánh Gióng
A. Mở bài:
Giới thiệu câu chuyện: Thánh Gióng là một truyền thuyết lịch sử hào hùng, là biểu tượng của lòng yêu nước và sức mạnh phi thường của dân tộc.
Hoàn cảnh nhân vật chính: Đời Hùng Vương thứ sáu, có hai vợ chồng ở làng Gióng hiền lành nhưng chưa có con.
B. Thân bài:
Sự ra đời kì lạ:
Bà vợ ra đồng ướm chân vào vết chân lạ, về nhà có thai.
Bà mang thai mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé khôi ngô.
Đứa bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười, đặt đâu nằm đấy.
Gióng cất tiếng nói:
Giặc Ân xâm lược nước ta, nhà vua sai sứ giả đi tìm người tài giỏi cứu nước.
Gióng nghe tiếng rao của sứ giả bỗng cất tiếng nói đầu tiên, nhờ mẹ mời sứ giả vào.
Gióng yêu cầu vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt.
Sự lớn lên phi thường:
Từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no, mặc áo nào cũng chật.
Bà con làng xóm cùng nhau góp gạo, nấu cơm, may vá để nuôi Gióng.
Tình yêu thương và sự giúp đỡ của dân làng đã nuôi Gióng lớn mạnh.
Ra trận đánh giặc:
Giặc Ân đến chân núi Trâu, cũng là lúc sứ giả mang đủ lễ vật đến.
Gióng vươn vai, trở thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt.
Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi sắt, nhảy lên ngựa phi ra trận.
Giặc chết như ngả rạ. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre làm vũ khí.
Cái kết và sự ra đi:
Giặc tan, Gióng phi ngựa đến núi Sóc, cởi bỏ giáp sắt và bay về trời.
Vua phong làm Phù Đổng Thiên Vương, lập đền thờ.
C. Kết bài:
Ca ngợi: Thánh Gióng là biểu tượng của tinh thần bất khuất, sức mạnh đoàn kết của dân tộc ta.
Ý nghĩa: Truyền thuyết lý giải những dấu tích còn lại ở làng Gióng và thể hiện lòng biết ơn của nhân dân với người anh hùng.
Kể lại truyện Thánh Gióng – Văn mẫu lớp 6 bài 1
Từ thuở còn thơ bé, em đã được nghe bao câu chuyện kể của bà, của mẹ về lịch sử hào hùng của dân tộc. Và có lẽ, ai cũng mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết. Thánh Gióng là một vị anh hùng oai phong như thế, một truyền thuyết vô cùng hấp dẫn kể về người anh hùng này.
Truyền thuyết kể lại rằng: Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một ngôi làng nọ bên sông Hồng, có hai vợ chồng nông dân phúc đức nhưng mãi vẫn chưa có con. Một ngày kia, bà vợ ra đồng thấy một vết chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà liền mang thai, hai vợ chồng vô cùng vui mừng. Nhưng không giống những người khác, mười hai tháng sau bà mới sinh ra một cậu bé khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ nữa là Gióng lên ba tuổi vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu nằm đó, hai vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng.
Cũng năm ấy, giặc Ân đem quân sang xâm lược nước ta, gây nên bao tội ác, dân chúng lầm than. Nhà vua sai người đi khắp cả nước tìm người hiền tài cứu nước. Nghe tiếng rao “Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước”, Gióng đang nằm trên giường bỗng cất tiếng nói đầu tiên: “Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.” Bà mẹ rất bất ngờ và vui mừng, vội mời sứ giả vào. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua, chuẩn bị đầy đủ ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc.
Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả trở về, Gióng ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo mặc xong đã sứt chỉ. Mẹ cậu nuôi không đủ đành nhờ đến hàng xóm. Bà con biết chuyện nên cũng rất phấn khởi, ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho cậu rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ngày ra giết giặc giúp nước.
Ngày ấy, giặc vừa đến sát chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp mang vũ khí tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sĩ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Cả người cả ngựa lao vun vút ra trận. Trên chiến trường, Gióng tung hoành ngang dọc, giặc chết dưới tay như ngả rạ. Bỗng gậy sắt gãy, Gióng nhanh như chớp nhổ tre bên đường làm vũ khí mới. Giặc sợ hãi chạy trốn, dẫm đạp lên nhau mà chết. Khi trời đất đã sạch bóng giặc, Gióng phi ngựa bay về núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt, vái tạ mẹ rồi bay về trời.
Vua phong hiệu cho cậu là Thánh Gióng, nhân dân lập đền thờ phụng. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa sắt thét ra lửa đã thiêu trụi một làng. Đến nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ, là di tích minh chứng cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng. Truyền thuyết người anh hùng Thánh Gióng vẫn được lưu giữ và truyền tụng mãi trong dân gian. Thánh Gióng chính là biểu tượng cho ước mơ, sức mạnh bảo vệ đất nước của nhân dân ta.
Kể lại truyện Thánh Gióng – Văn mẫu lớp 6 bài 2
Dưới thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão hiền lành nhưng chưa có con. Một hôm, bà lão ra đồng ướm thử bàn chân mình lên những vết chân lạ, về nhà mang thai đến mười hai tháng mới sinh hạ một đứa con trai khôi ngô. Nuôi đến ba tuổi, đứa bé vẫn nằm một chỗ, chưa biết đi đứng, cười nói.
Gặp lúc giặc Ân quấy nhiễu, vua sai sứ giả đi rao khắp nơi tìm người tài giỏi. Nghe tin, cậu bé làng Gióng bỗng bật lên tiếng nói đầu tiên, nhờ mẹ mời sứ giả vào. Cậu yêu cầu sứ giả về tâu vua đúc cho ngựa sắt, roi sắt áo giáp sắt để mình dẹp tan giặc dữ. Từ đó, cậu lớn nhanh, ăn mạnh đến nỗi dân làng phải rủ nhau góp cơm gạo đến giúp.
Nhận được đủ lễ vật vua ban, cậu bé vươn vai trở thành một tráng sĩ oai nghi lẫm liệt. Nai nịt xong, chàng lên ngựa, vung roi vun vút. Ngựa phun lửa xông thẳng vào đội hình giặc khiến chúng ngã chết như rạ. Roi gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre bên đường. Quân giặc thua to, tan vỡ cả, đám sống sót tìm đường lẩn trốn. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc, cởi áo giáp bỏ lại, cả người lẫn ngựa bay vút lên trời.
Vua Hùng nhớ ơn phong làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Từ đó hàng năm vào tháng tư, ở đây hội Gióng được mở ra tưng bừng, nô nức, thu hút người khắp nơi về tham dự.
Kể lại truyện Thánh Gióng – Văn mẫu lớp 6 bài 3
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức, nhưng lại không có con. Họ buồn lắm. Một hôm, bà lão ra đồng thấy một vết chân to khác thường. Thấy lạ, bà đặt bàn chân mình vào. Thấm thoắt thời gian trôi đi, bà lão có thai, rồi mười hai tháng sau bà sinh được một bé trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng già mừng lắm. Nhưng lạ thay, đứa bé đã lên ba mà không biết nói, không biết cười, không biết đi, đặt đâu thì nằm đấy. Vợ chồng ông lão đâm lo lắng.
Bấy giờ giặc Ân thế mạnh như chẻ tre tràn vào xâm lược nước ta. Nhà vua túng thế, bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng loa của sứ giả, bỗng cựa mình và cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả lấy làm kinh ngạc và cũng tỏ ý vui mừng, vội về tâu với vua. Nhà vua chấp nhận và sai người ngày đêm làm đủ những vật mà chú bé yêu cầu.
Từ hôm gặp sứ giả, chú bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn không biết no, áo vừa mới mặc đã chật. Hai vợ chồng làm lụng cực nhọc mà không đủ nuôi con. Bà con xóm làng thấy thế, bèn xúm vào kẻ ít người nhiều nuôi chú bé.
Giặc Ân đã đến chân núi Trâu, tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc. Vừa lúc, sứ giả mang đủ các thứ mà chú bé đã dặn. Chú bé vươn vai, trong phút chốc đã trở thành tráng sĩ thật oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ vỗ mạnh vào mông ngựa sắt, ngựa hí vang dội cả một vùng. Tráng sĩ mặc áo giáp cầm roi sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lửa xông thẳng vào quân giặc hết lớp này đến lớp khác. Bỗng roi sắt bị gãy, tráng sĩ liền nhổ những bụi tre ven đường quất vào quân giặc. Thế giặc hỗn loạn, tan vỡ. Đám tàn quân dẫm đạp lên nhau mà tháo chạy. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc thì dừng lại, rồi một mình, một ngựa lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt để lại rồi bay lên trời.
Để tưởng nhớ người tướng sĩ có công đánh tan giặc Ân, nhà vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà.
Kể lại truyện Thánh Gióng – Văn mẫu lớp 6 bài 4
Truyền thuyết Thánh Gióng đã in sâu trong tâm trí em từ thuở nhỏ. Câu chuyện kể về người anh hùng có sức mạnh phi thường, biểu tượng cho lòng yêu nước và ý chí bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng đã già nhưng chưa có con. Một hôm, bà lão ra đồng, thấy một vết chân to, bà ướm thử và từ đó có thai. Sau mười hai tháng, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô. Điều kì lạ là lên ba tuổi, cậu vẫn không nói, không cười, chỉ nằm im một chỗ.
Giặc Ân xâm lược, vua sai sứ giả đi tìm người tài giỏi cứu nước. Nghe tiếng sứ giả rao, cậu bé bỗng cất tiếng nói, đòi sứ giả vào. Cậu yêu cầu vua sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt. Sau đó, cậu lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không đủ no. Bà con hàng xóm phải chung tay nuôi Gióng.
Khi giặc đến gần, sứ giả cũng mang vũ khí tới. Gióng vươn vai thành một tráng sĩ cao lớn, oai hùng. Chàng mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên ngựa sắt, xông thẳng vào quân giặc. Ngựa sắt phun lửa, Gióng dùng roi sắt đánh giặc. Roi gãy, chàng nhổ tre bên đường để đánh tiếp. Giặc tan, Gióng phi ngựa đến núi Sóc, cởi bỏ giáp sắt và bay về trời. Vua Hùng phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương.
Kể lại truyện Thánh Gióng – Văn mẫu lớp 6 bài 5
Ngày xưa, đời Hùng Vương thứ sáu, có một cặp vợ chồng nông dân hiền lành, nhưng không có con. Một hôm, bà vợ ướm chân vào một vết chân lạ trên đồng, về nhà có thai. Mười hai tháng sau, bà sinh ra một cậu bé đặt tên là Gióng. Lạ thay, lên ba tuổi, Gióng vẫn không nói, không cười, chỉ nằm một chỗ.
Khi giặc Ân xâm lược, nhà vua sai sứ giả đi tìm người tài giỏi đánh giặc. Nghe tiếng rao của sứ giả, Gióng bỗng cất tiếng nói, đòi gặp sứ giả và xin vua sắm vũ khí bằng sắt. Từ đó, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn khỏe không ai nuôi nổi. Bà con lối xóm phải cùng nhau góp gạo, nấu cơm, nuôi cậu bé.
Đúng lúc giặc đến, sứ giả mang vũ khí tới. Gióng vươn vai trở thành một tráng sĩ oai vệ. Chàng mặc áo giáp, cầm roi sắt, nhảy lên ngựa phi ra trận. Ngựa sắt phun lửa, Gióng đánh tan quân giặc. Khi roi sắt gãy, chàng nhổ tre bên đường để tiếp tục đánh. Giặc thua chạy, Gióng đuổi đến núi Sóc rồi bay về trời.
Vua Hùng nhớ ơn, phong cho Gióng là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ.
Kể lại truyện Thánh Gióng – Văn mẫu lớp 6 bài 6
Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng đã già mà chưa có con. Một hôm, bà vợ đi ra đồng thấy một vết chân to, bà ướm thử. Về nhà bà mang thai và sinh ra một cậu bé. Lên ba tuổi, cậu vẫn không biết nói.
Khi giặc Ân sang xâm lược, nhà vua sai sứ giả đi tìm người tài giỏi cứu nước. Cậu bé Gióng nghe tiếng sứ giả, bỗng cất tiếng nói đầu tiên, nhờ mẹ mời sứ giả vào. Gióng xin vua sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt. Sau khi sứ giả về, Gióng lớn nhanh như thổi. Bà con hàng xóm cùng nhau nuôi Gióng.
Giặc đến, sứ giả mang vũ khí tới. Gióng vươn vai thành một tráng sĩ. Chàng cầm vũ khí, nhảy lên ngựa phi ra trận. Ngựa sắt phun lửa, Gióng đánh giặc rất mạnh. Khi roi sắt gãy, chàng nhổ tre để đánh tiếp. Giặc thua, Gióng đuổi giặc đến núi Sóc rồi bay về trời.
Nhân dân lập đền thờ Gióng, ghi nhớ công ơn. Câu chuyện thể hiện lòng yêu nước và sức mạnh đoàn kết của dân tộc ta.
Kể lại truyện Thánh Gióng – Văn mẫu lớp 6 bài 7
Ngày xưa, đời vua Hùng thứ sáu, có một bà lão sinh ra một đứa con trai kì lạ. Đứa bé lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười. Bà đặt tên con là Gióng.
Khi giặc Ân xâm lược, nhà vua cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi đánh giặc. Gióng nghe thấy, bỗng cất tiếng nói: “Mẹ mời sứ giả vào đây.” Gióng yêu cầu sứ giả sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt. Sau đó, Gióng lớn nhanh như thổi, ăn khỏe không ai nuôi nổi.
Đến khi giặc đến, Gióng vươn vai trở thành tráng sĩ, mặc áo giáp, cầm roi sắt, nhảy lên ngựa phi ra trận. Chàng đánh tan quân giặc. Roi gãy, chàng nhổ tre bên đường đánh tiếp. Giặc thua chạy. Gióng đuổi giặc đến núi Sóc rồi bay về trời.
Vua phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Nhân dân lập đền thờ Gióng để ghi nhớ công ơn.
Kể lại truyện Thánh Gióng – Văn mẫu lớp 6 bài 8
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng hiền lành, nhưng không có con. Một hôm, bà vợ ra đồng thấy một vết chân to, ướm thử và mang thai. Sau mười hai tháng, bà sinh một bé trai. Lên ba tuổi, cậu vẫn không nói, không cười.
Giặc Ân đến, nhà vua sai sứ giả tìm người tài. Gióng nghe tiếng rao của sứ giả, bỗng cất tiếng nói, đòi gặp sứ giả và xin vua sắm vũ khí bằng sắt. Gióng lớn nhanh như thổi, ăn rất khỏe. Bà con hàng xóm cùng nhau nuôi Gióng.
Giặc đến, sứ giả mang vũ khí tới. Gióng vươn vai thành tráng sĩ, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, xông ra trận. Chàng đánh tan giặc. Roi gãy, chàng nhổ tre làm vũ khí. Giặc thua, Gióng bay về trời.
Vua Hùng phong cho Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Nhân dân lập đền thờ để tỏ lòng biết ơn.
Kể lại truyện Thánh Gióng – Văn mẫu lớp 6 bài 9
Em rất yêu thích truyện Thánh Gióng. Câu chuyện kể về một cậu bé kì lạ, lên ba tuổi vẫn không nói, không cười. Khi giặc Ân đến xâm lược, cậu bỗng cất tiếng nói đầu tiên, đòi đi đánh giặc.
Cậu bé yêu cầu vua sắm cho vũ khí bằng sắt. Sau đó, cậu lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không no. Bà con làng xóm cùng nhau nuôi cậu.
Giặc đến, cậu vươn vai thành một tráng sĩ, mặc áo giáp, cầm roi sắt, nhảy lên ngựa phi ra trận. Ngựa sắt phun lửa, Gióng đánh tan giặc. Roi gãy, Gióng nhổ tre để đánh tiếp. Giặc thua, Gióng bay về trời.
Vua Hùng phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Câu chuyện ca ngợi lòng yêu nước và sức mạnh đoàn kết của dân tộc ta.
Kể lại truyện Thánh Gióng – Văn mẫu lớp 6 bài 10
Hùng Vương thứ sáu có một bà lão sinh ra một cậu bé kì lạ. Lên ba tuổi, cậu bé vẫn không nói. Khi giặc Ân đến xâm lược, cậu bỗng cất tiếng nói đòi đi đánh giặc. Cậu yêu cầu vua sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt.
Sau đó, cậu lớn rất nhanh. Bà con hàng xóm phải chung tay nuôi cậu. Khi giặc đến, Gióng vươn vai thành tráng sĩ, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, xông ra trận. Chàng đánh tan giặc. Roi gãy, chàng nhổ tre làm vũ khí. Giặc thua chạy. Gióng phi ngựa đến núi Sóc rồi bay về trời.
Vua phong cho Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Nhân dân lập đền thờ để tỏ lòng biết ơn. Câu chuyện này là biểu tượng cho sức mạnh của con người Việt Nam.
Bài viết số 1 lớp 6 đề 5: Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy
Dàn ý: Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy
A. Mở bài:
Giới thiệu câu chuyện: Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy là một câu chuyện giải thích nguồn gốc của hai loại bánh truyền thống, đồng thời ca ngợi giá trị của nông sản và lòng hiếu thảo.
Nêu bối cảnh: Ngày xưa, vào đời Hùng Vương thứ sáu, vua muốn tìm người con xứng đáng để truyền ngôi.
B. Thân bài:
Vua Hùng Vương ra điều kiện:
Vua đã già, muốn chọn một trong hai mươi người con trai để truyền ngôi.
Vua tuyên bố: Ai làm một mâm cỗ dâng lên Tiên Vương vừa ý vua, sẽ được nối ngôi.
Các hoàng tử khác đua nhau lên rừng xuống biển tìm kiếm của ngon vật lạ.
Hoàn cảnh của Lang Liêu và giấc mơ kì lạ:
Giới thiệu Lang Liêu: là hoàng tử thứ 18, mồ côi mẹ từ sớm, sống giản dị, chăm chỉ làm nông.
Lang Liêu buồn bã, lo lắng vì không có của ngon vật lạ để dâng lên vua cha.
Một đêm, chàng nằm mơ thấy một vị thần đến báo mộng, chỉ cho cách làm bánh.
Vị thần nói: “Trong trời đất không gì quý bằng hạt gạo. Con hãy dùng gạo nếp làm bánh dâng lên vua cha.”
Lang Liêu làm bánh và được chọn truyền ngôi:
Lang Liêu tỉnh giấc, mừng rỡ làm theo lời thần dặn.
Chàng lấy gạo nếp làm hai loại bánh:
Bánh hình vuông, bên trong có nhân đậu xanh và thịt lợn, gói bằng lá dong, tượng trưng cho Đất và sản vật.
Bánh hình tròn, được làm từ xôi nếp giã nhuyễn, tượng trưng cho Trời.
Ngày lễ Tiên Vương, các hoàng tử mang đến những món sơn hào hải vị.
Lang Liêu dâng lên vua hai thứ bánh giản dị.
Vua Hùng thấy bánh của Lang Liêu tuy đơn giản nhưng ý nghĩa, hỏi rõ và được Lang Liêu kể lại giấc mơ.
Vua ca ngợi ý nghĩa sâu sắc của hai loại bánh và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu.
C. Kết bài:
Nêu ý nghĩa của câu chuyện: Bánh chưng, bánh giầy trở thành lễ vật không thể thiếu trong ngày Tết.
Khẳng định: Câu chuyện đề cao giá trị của hạt gạo, ca ngợi nghề nông và tấm lòng hiếu thảo của con người.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy – Văn mẫu lớp 6 bài 1
Bập bùng… Bập bùng…. Ngọn lửa bùng lên bên nồi bánh chưng. Lửa mang hơi ấm khe khẽ len vào từng con ngõ nhỏ. Lửa mang sức sống bung nở hoa đào, hoa mai. Và ngọn lửa chờn vờn như đang khơi dậy những hồi ức, hồi ức về truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy.
Chuyện xảy ra cũng từ rất lâu rồi. Vua Hùng Vương đời thứ sáu muốn truyền ngôi cho con nhưng ông có hai mươi người con trai, không biết chọn ai cho xứng đáng. Vua bèn gọi các con lại và nói: “Nay ta đã già, không thể sống mãi trên đời. Người ta truyền ngôi phải là người nối chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa lòng ta, ta sẽ truyền ngôi cho.”
Các lang ai cũng muốn được vua cha truyền ngôi nên đều cố công trèo đèo lội suối, lên rừng xuống biển để tìm của ngon vật lạ. Trong các lang, Lang Liêu là người thiệt thòi nhất. Mẹ chàng mất sớm, từ khi ở riêng, chàng chỉ chăm lo việc đồng áng. Nhìn lại căn nhà đơn sơ, chỉ có khoai và sắn. Lang Liêu lấy làm buồn lắm. Một đêm, chàng nằm ngủ mơ thấy thần nói chuyện với mình: “Lang Liêu! Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Con hãy sử dụng mà làm bánh lễ Tiên vương.”
Chàng tỉnh dậy mới biết đó là giấc mơ. Chàng mừng lắm. Lang Liêu bắt tay ngay vào làm bánh theo lời thần chỉ bảo. Chàng chọn những hạt gạo nếp thơm ngon nhất, vo sạch, dùng đậu xanh, thịt mỡ làm nhân. Chàng ra vườn lấy lá dong để gói bánh hình vuông. Cùng một thứ gạo ấy, chàng giã nhuyễn, đồ lên rồi nặn thành hình tròn.
Hôm đó, đến ngày lễ Tiên vương, các lang lần lượt mang các món ăn vào yết kiến nhà vua. Vua cha xem qua một lượt rồi bỗng dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu. Ông cho gọi Lang Liêu lên và chàng đã kể lại giấc mơ. Vua cha nói: “Bánh này hình vuông, tượng trưng cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng. Bánh còn lại hình tròn, tượng trưng cho Trời, ta đặt là bánh giầy. Hai thứ bánh này vừa giản dị vừa giàu ý nghĩa. Lang Liêu đã dâng lễ vật vừa ý ta, sẽ được ta truyền ngôi cho.”
Nói xong, vua Hùng đặt bánh lên lễ Tiên vương. Lễ xong, các vua cùng quần thần quây quần để thưởng thức. Ai cũng tấm tắc khen ngon. Lang Liêu được truyền ngôi và trở thành ông vua hiền minh. Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi, và bánh chưng, bánh giầy không thể thiếu trong ngày Tết.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy – Văn mẫu lớp 6 bài 2
Bánh chưng, bánh giầy là hai loại bánh đặc trưng của ngày Tết Việt Nam. Chúng không chỉ là món ăn mà còn mang đậm hương vị và văn hóa dân tộc. Nguồn gốc của hai loại bánh này được giải thích qua một truyền thuyết cổ xưa.
Thời rất xưa, vào đời Hùng Vương thứ sáu, sau khi đuổi được giặc Ân, vua Hùng muốn truyền lại ngai vàng cho một hoàng tử xứng đáng nhất. Vào dịp đầu năm mới, vua gọi các hoàng tử đến và bảo rằng: “Ai tìm được thức ăn ngon để bày ra một mâm cỗ Tết thật ý nghĩa thì ta sẽ truyền lại ngôi vua cho người đó.”
Các hoàng tử ai cũng đều đua nhau tìm kiếm khắp nơi những món ăn ngon nhất, lạ nhất để dâng lên vua Hùng. Lang Liêu là hoàng tử thứ mười tám, chàng là người con duy nhất có đức tính hiền lành, hiếu thảo. Vì mồ côi mẹ từ sớm, chàng thiếu người chỉ dạy nên rất lo lắng không biết làm thế nào.
Một hôm, Lang Liêu đang nằm ngủ, trong giấc mơ chàng thấy một vị thần xuất hiện và bảo rằng: “Này con, trong trời đất này không có gì quý bằng gạo cả. Gạo chính là thức ăn để nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp thật ngon, làm thành những chiếc bánh hình tròn và hình vuông. Hình tròn tượng trưng cho trời, hình vuông tượng trưng cho đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, làm nhân đặt trong ruột bánh để tượng trưng cho sự sinh thành của cha mẹ.”
Hoàng tử tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời thần dặn. Chàng chọn gạo nếp thật ngon để làm bánh vuông, đó là bánh chưng. Chàng lấy xôi nếp giã nhuyễn, nặn lại thành hình tròn, đó là bánh giầy. Lá xanh bọc ngoài, che chở cho bánh, tượng trưng cho sự che chở của cha mẹ.
Ngày hẹn đã đến, các hoàng tử ai nấy cũng đều mang những sơn hào hải vị dâng lên vua. Đến lượt Lang Liêu, chỉ có hai loại bánh được làm từ gạo nếp. Vua Hùng rất ngạc nhiên, Lang Liêu kể về giấc mơ và giải thích ý nghĩa. Vua thấy rất ngon và ý nghĩa nên nhường lại ngai vàng cho Lang Liêu. Và kể từ đó, bánh chưng bánh giầy ra đời, cứ dịp Tết đến thì không bao giờ thiếu hai loại bánh này.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy – Văn mẫu lớp 6 bài 3
Mỗi khi Tết đến xuân về, mâm cỗ nhà nào cũng có bánh chưng, bánh giầy. Nhưng các bạn có bao giờ tự hỏi về nguồn gốc của hai loại bánh này không? Để tôi kể cho các bạn nghe nhé.
Vua Hùng Vương thứ sáu lúc về già muốn truyền ngôi cho con nhưng ông có tới hơn hai mươi người con trai. Không biết chọn ai, vua bèn gọi các con đến bảo: “Ta muốn truyền lại ngôi cho một trong số các con. Người nối ngôi ta phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân ngày lễ của Thiên Vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho.”
Các lang ai cũng muốn ngôi báu thuộc về mình nhưng ý vua thế nào thì không ai biết. Họ chỉ biết soạn cỗ thật ngon, thật hậu để dâng lên Tiên Vương. Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám, mồ côi mẹ từ sớm, chăm chỉ làm nông. Trong nhà chàng chỉ có khoai với lúa. Lang Liêu buồn lắm.
Một đêm, chàng ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, chàng nhìn thấy một ông lão râu tóc bạc phơ, hiền từ cười nói: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống con người. Hãy lấy gạo làm bánh lễ Tiên Vương.”
Sáng sớm tỉnh dậy, chàng mừng rỡ làm theo lời thần dặn. Chàng chọn gạo nếp thơm, đem vo thật sạch rồi lấy đậu xanh thịt lợn làm nhân, lấy lá dong gói thành hình vuông. Chàng còn làm một loại bánh khác, dùng xôi nếp giã nhuyễn, nặn thành hình tròn.
Đến ngày lễ Tiên Vương, các hoàng tử đua nhau khoe sơn hào hải vị. Vua Hùng xem qua rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu. Thấy lạ, vua cho vời Lang Liêu lên hỏi. Lang Liêu kể hết mọi chuyện. Ngẫm nghĩ một lát, vua lấy bánh của Lang Liêu đem lễ Tiên Vương. Lễ xong, vua cho mọi người thụ lộc, ai cũng khen ngon. Nhà vua nói: “Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta gọi là bánh giầy, bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta gọi là bánh chưng. Lang Liêu đã làm đúng ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho Lang Liêu.”
Từ đấy, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy. Câu chuyện tôi kể không chỉ nói về nguồn gốc bánh chưng, bánh giầy mà còn đề cao nghề nông và sự tôn kính đối với tổ tiên.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy – Văn mẫu lớp 6 bài 4
Ngày xưa, vào đời Hùng Vương thứ sáu, vua đã già và muốn nhường ngôi cho một người con trai. Vua muốn tìm một người con không chỉ tài giỏi mà còn có tấm lòng hiếu thảo, biết trân trọng những giá trị giản dị. Vua ra điều kiện: ai làm được một món ăn độc đáo để dâng lên cúng Tổ tiên sẽ được truyền ngôi.
Các hoàng tử ai cũng muốn được truyền ngôi, nên họ đua nhau đi tìm những món ngon, của lạ. Chỉ có Lang Liêu, người con trai thứ mười tám, là sống rất giản dị, gần gũi với nông dân nên không biết phải làm món gì. Chàng buồn bã.
Một đêm, Lang Liêu nằm mơ thấy một vị thần. Thần bảo: “Không gì quý bằng gạo, là thức ăn nuôi sống con người. Hãy lấy gạo nếp làm hai loại bánh, một hình tròn tượng trưng cho trời, một hình vuông tượng trưng cho đất, để dâng lên vua.” Lang Liêu tỉnh giấc, mừng rỡ làm theo lời thần. Chàng làm bánh chưng vuông, nhân thịt lợn và đậu xanh, và bánh giầy tròn.
Đến ngày dâng lễ, các hoàng tử mang đến những món ăn quý hiếm. Riêng Lang Liêu chỉ dâng lên hai loại bánh đơn giản. Vua Hùng thấy lạ, hỏi Lang Liêu. Nghe Lang Liêu giải thích ý nghĩa của hai loại bánh, vua rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, bánh chưng, bánh giầy trở thành món ăn truyền thống của người Việt, đặc biệt là trong dịp Tết.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy – Văn mẫu lớp 6 bài 5
Câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy kể về vua Hùng thứ sáu muốn truyền ngôi cho con. Ông ra điều kiện: ai làm được món ăn vừa ý để cúng tổ tiên thì sẽ được làm vua. Các hoàng tử khác thì đi tìm của ngon vật lạ, chỉ có Lang Liêu là buồn bã vì chàng chỉ có lúa gạo.
Một đêm, Lang Liêu được thần báo mộng, chỉ cho chàng cách làm hai loại bánh từ gạo nếp: một loại hình tròn tượng trưng cho trời, một loại hình vuông tượng trưng cho đất. Lang Liêu làm theo. Chàng gói bánh chưng hình vuông, nhân đậu xanh và thịt. Chàng giã xôi nếp, nặn thành bánh giầy hình tròn.
Đến ngày dâng lễ, vua Hùng thấy bánh của Lang Liêu đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, nên chọn để cúng tổ tiên. Vua rất hài lòng và truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, bánh chưng, bánh giầy trở thành món ăn truyền thống trong ngày Tết của dân tộc Việt Nam.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy – Văn mẫu lớp 6 bài 6
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, vua muốn chọn một người con trai tài đức để truyền ngôi. Vua nói: “Ai làm được món ăn dâng lên lễ Tiên Vương vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho”. Ngay lập tức, các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ. Lang Liêu, hoàng tử thứ mười tám, sống cuộc sống giản dị, chăm lo đồng áng. Chàng không biết làm thế nào để có món ăn quý dâng vua.
Một đêm, Lang Liêu nằm mơ thấy thần. Thần bảo: “Không gì quý bằng hạt gạo. Con hãy dùng gạo nếp làm hai loại bánh, một hình tròn tượng trưng cho trời, một hình vuông tượng trưng cho đất.” Tỉnh dậy, Lang Liêu làm theo.
Đến ngày dâng lễ, Lang Liêu mang đến hai loại bánh làm từ gạo nếp. Vua Hùng thấy lạ, nhưng khi nghe Lang Liêu giải thích ý nghĩa, vua rất hài lòng. Vua nói: “Bánh hình tròn là bánh giầy, tượng trưng cho Trời. Bánh hình vuông là bánh chưng, tượng trưng cho Đất.” Vua quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Câu chuyện giải thích nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy và ca ngợi những giá trị giản dị nhưng sâu sắc.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy – Văn mẫu lớp 6 bài 7
Ngày xưa, vua Hùng Vương thứ sáu muốn tìm người nối ngôi. Vua tổ chức một cuộc thi: ai làm được món ăn dâng lên tổ tiên vừa ý vua thì sẽ được làm vua. Các hoàng tử khác đi tìm sơn hào hải vị, nhưng Lang Liêu, hoàng tử út, chỉ có lúa gạo.
Lang Liêu buồn bã, nhưng một đêm, chàng mơ thấy thần báo mộng, chỉ cho chàng dùng gạo nếp làm hai loại bánh: một bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, một bánh hình tròn tượng trưng cho Trời. Lang Liêu làm theo lời thần.
Khi dâng lễ, vua Hùng thấy bánh của Lang Liêu tuy đơn giản nhưng rất ý nghĩa. Vua rất hài lòng và truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, bánh chưng, bánh giầy trở thành biểu tượng của nền văn hóa lúa nước và lòng hiếu thảo của dân tộc Việt Nam.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy – Văn mẫu lớp 6 bài 8
Vào đời vua Hùng thứ sáu, nhà vua đã già và muốn truyền ngôi cho con. Vua ra điều kiện: ai làm được món ăn ngon để dâng lên cúng Tổ tiên sẽ được nối ngôi. Các hoàng tử khác đi tìm của ngon vật lạ, riêng Lang Liêu lại không biết làm gì vì chàng chỉ có lúa gạo.
Một đêm, Lang Liêu mơ thấy thần linh chỉ cho cách làm bánh từ gạo nếp. Chàng làm hai loại bánh: bánh chưng hình vuông, bánh giầy hình tròn. Bánh chưng có nhân đậu xanh và thịt, tượng trưng cho Đất. Bánh giầy tượng trưng cho Trời.
Đến ngày dâng lễ, vua Hùng thấy bánh của Lang Liêu tuy giản dị nhưng ý nghĩa sâu sắc, ca ngợi hạt gạo, tượng trưng cho đất trời. Vua chọn bánh của Lang Liêu và truyền ngôi cho chàng. Từ đó, bánh chưng, bánh giầy là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy – Văn mẫu lớp 6 bài 9
Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy kể về cuộc thi chọn người nối ngôi vua Hùng. Vua muốn tìm người con có tấm lòng hiếu thảo. Các hoàng tử đều đua nhau tìm kiếm món ăn quý. Lang Liêu, một hoàng tử sống giản dị, không biết làm gì.
Một đêm, chàng mơ thấy thần báo mộng, chỉ cho chàng cách làm hai loại bánh từ gạo nếp: một hình tròn và một hình vuông, tượng trưng cho Trời và Đất. Chàng làm theo, gói bánh chưng vuông và nặn bánh giầy tròn.
Vua Hùng rất hài lòng với món bánh của Lang Liêu, không chỉ vì sự giản dị mà còn vì ý nghĩa sâu sắc. Vua truyền ngôi cho Lang Liêu và từ đó, bánh chưng, bánh giầy trở thành món ăn truyền thống của dân tộc.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy – Văn mẫu lớp 6 bài 10
Ngày xưa, vua Hùng thứ sáu muốn truyền ngôi cho một trong các con trai của mình. Vua ra điều kiện: ai làm được món ăn dâng cúng tổ tiên vừa ý vua thì sẽ được nối ngôi. Các hoàng tử khác thì đi tìm những món sơn hào hải vị.
Lang Liêu, người con trai út, sống giản dị và chỉ biết trồng trọt. Một đêm, chàng mơ thấy một vị thần và được chỉ cách làm bánh từ gạo nếp. Chàng làm bánh chưng hình vuông và bánh giầy hình tròn.
Ngày dâng lễ, vua Hùng thấy bánh của Lang Liêu tuy đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, thể hiện sự trân trọng đối với hạt gạo và đất trời. Vua đã chọn Lang Liêu để truyền ngôi. Từ đó, bánh chưng, bánh giầy trở thành món ăn không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt.