1. Home
  2. Văn mẫu lớp 6
  3. Kể lại một truyền thuyết
Phan Dinh 4 giờ trước

Kể lại một truyền thuyết

Kể lại một truyền thuyết,  bài văn mẫu lớp 6 sinh động, hấp dẫn, tái hiện câu chuyện truyền thuyết giàu ý nghĩa, khơi gợi lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Đề bài: Kể lại một truyền thuyết – Văn mẫu lớp 6

Kể lại một truyền thuyết

Dàn ý chi tiết cho bài văn kể lại một truyền thuyết

1. Mở bài:

Giới thiệu câu chuyện: Nêu tên truyền thuyết và tóm tắt ngắn gọn bối cảnh, nhân vật hoặc sự kiện chính.

Gợi cảm xúc: Em có thể bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ hoặc một câu văn gợi mở về ý nghĩa câu chuyện.

2. Thân bài:

Hoàn cảnh ra đời của truyền thuyết: Kể về bối cảnh lịch sử, xã hội, hay cuộc sống của người dân thời xưa.

Sự xuất hiện của nhân vật chính: Giới thiệu về nhân vật chính, bao gồm nguồn gốc, ngoại hình và những tài năng đặc biệt.

Diễn biến chính của câu chuyện:

Sự kiện mở đầu (một biến cố, một cuộc thi, một cuộc hôn nhân…).

Các chi tiết, hành động thể hiện tài năng hoặc phẩm chất của nhân vật.

Mâu thuẫn hoặc thử thách xuất hiện.

Hành trình của nhân vật để vượt qua thử thách.

Đỉnh điểm câu chuyện: Kể về sự kiện cao trào, nơi mâu thuẫn được giải quyết.

Kết thúc câu chuyện: Kết quả của sự việc, sự thay đổi của các nhân vật và bối cảnh.

3. Kết bài:

Kết thúc câu chuyện: Tóm tắt ngắn gọn lại câu chuyện và số phận các nhân vật.

Ý nghĩa của truyền thuyết: Giải thích ý nghĩa của câu chuyện. Em có thể liên hệ với một di tích lịch sử, một phong tục tập quán hay một địa danh nào đó.

Cảm nghĩ của bản thân: Nêu lên cảm nhận của em về bài học được rút ra từ câu chuyện.

15 bài văn mẫu lớp 6: Kể lại một truyền thuyết

Kể lại một truyền thuyết

Bài văn mẫu số 1: Sự tích Bánh chưng, bánh giầy

Ngày xưa, vào đời Hùng Vương thứ sáu, vua muốn tìm người tài đức để truyền ngôi. Vua có đến hai mươi người con trai. Thay vì truyền ngôi cho con trưởng, vua quyết định mở một cuộc thi đặc biệt. Vua ra lệnh, ai làm được món ăn vừa ngon, vừa ý nghĩa để cúng tổ tiên thì sẽ được truyền ngôi. Các hoàng tử đua nhau đi tìm sơn hào hải vị khắp nơi, nhưng Lang Liêu, người con thứ mười tám, lại vô cùng lo lắng. Chàng sống giản dị, chỉ có khoai và lúa. Một đêm, chàng nằm mộng thấy một vị thần đến bảo: “Trong trời đất không gì quý bằng hạt gạo. Con hãy dùng gạo nếp làm bánh để cúng tổ tiên”. Tỉnh dậy, Lang Liêu làm theo lời thần. Chàng dùng gạo nếp làm hai loại bánh: một loại hình vuông, gói bằng lá dong, có nhân đậu xanh và thịt lợn, tượng trưng cho Đất và muôn loài. Loại kia làm hình tròn, giã nhuyễn, màu trắng, tượng trưng cho Trời. Đến ngày lễ, các hoàng tử mang đến những mâm cỗ sang trọng, lộng lẫy, nhưng vua Hùng chỉ chú ý đến mâm bánh của Lang Liêu. Nghe chàng giải thích ý nghĩa của hai loại bánh, vua vô cùng hài lòng và đã truyền ngôi cho Lang Liêu. Từ đó, cứ mỗi dịp Tết, dân ta lại làm bánh chưng, bánh giầy để cúng tổ tiên và trời đất, nhớ về truyền thống cao đẹp của dân tộc.

Bài văn mẫu số 2: Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh

Thuở xưa, Hùng Vương thứ mười tám có một cô con gái xinh đẹp và dịu dàng tên là Mị Nương. Vua muốn tìm cho nàng một người chồng tài giỏi. Hai chàng trai đến cầu hôn là Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sơn Tinh là chúa vùng non cao, có tài dời non, lấp biển. Thủy Tinh là chúa vùng biển thẳm, có tài hô mưa gọi gió. Cả hai đều tài giỏi ngang sức ngang tài, khiến vua Hùng băn khoăn không biết chọn ai. Cuối cùng, vua ra điều kiện: ai mang sính lễ đến trước sẽ được cưới Mị Nương. Lễ vật gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi. Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đã đến từ sớm với đầy đủ lễ vật. Vua Hùng giữ lời hứa, gả Mị Nương cho chàng. Thủy Tinh đến sau, không lấy được Mị Nương nên vô cùng giận dữ. Thần Nước dâng nước lên cao ngập cả đồng bằng, núi đồi. Nhưng Sơn Tinh dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, làm cho nước dâng đến đâu, núi cao lên đến đó. Cuộc chiến kéo dài ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Thủy Tinh kiệt sức, đành phải rút quân về. Từ đó, oán nặng thù sâu, năm nào Thủy Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng thất bại. Câu chuyện này không chỉ lý giải hiện tượng lũ lụt hàng năm mà còn ca ngợi sức mạnh của con người trong việc chống chọi với thiên tai.

Bài văn mẫu số 3: Truyền thuyết Thánh Gióng

Ngày xửa ngày xưa, vào đời Vua Hùng thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng đã già nhưng chưa có con. Một hôm, người vợ ra đồng thấy một vết chân khổng lồ, bèn đặt bàn chân mình ướm thử. Về nhà, bà mang thai và sinh ra một cậu bé khôi ngô. Nhưng cậu bé lạ thay, lên ba tuổi vẫn không biết nói, không biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta, thế giặc rất mạnh. Vua sai sứ giả đi khắp nơi để tìm người tài cứu nước. Khi sứ giả đến làng Gióng, cậu bé bỗng cất tiếng nói đầu tiên, bảo mẹ ra mời sứ giả vào. Gặp sứ giả, cậu bé yêu cầu vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Kể từ đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Bà con trong làng phải góp gạo nuôi chú bé. Khi giặc đã đến chân núi Trâu, sứ giả vừa mang đồ đến, cậu bé vùng dậy, vươn vai biến thành một tráng sĩ oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ mặc áo giáp, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt xông thẳng ra trận. Giặc chết như rạ. Roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ bụi tre ven đường quật vào giặc. Giặc tan tác, giẫm đạp lên nhau mà chạy trốn. Đánh tan giặc, tráng sĩ một mình một ngựa đến chân núi Sóc, cởi bỏ áo giáp rồi bay thẳng lên trời. Vua Hùng nhớ ơn, phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà.

Bài văn mẫu số 4: Sự tích Hồ Gươm

Thời giặc Minh đô hộ nước ta, chúng bóc lột, làm nhiều điều tàn ác khiến dân chúng lầm than. Ở vùng Lam Sơn, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa, nhưng buổi đầu gặp nhiều khó khăn, thất bại liên tiếp. Thấy vậy, Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để đánh giặc. Ở vùng Thanh Hóa, một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận, đã ba lần kéo lưới lên đều vớt được một thanh sắt. Anh thấy lạ nên mang về nhà. Về sau, Lê Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Một hôm, Lê Lợi đến nhà Thận và thấy thanh gươm phát sáng. Ít lâu sau, khi Lê Lợi chạy giặc, ông trèo lên cây đa và tìm được một cái chuôi gươm nạm ngọc. Khi tra chuôi vào lưỡi gươm của Lê Thận thì vừa như in. Từ khi có gươm thần, nghĩa quân đánh đâu thắng đó, tiến công mạnh mẽ. Cuối cùng, giặc Minh phải rút lui, đất nước được độc lập. Lê Lợi lên ngôi vua. Một năm sau, khi vua dạo chơi trên hồ Tả Vọng, một con Rùa Vàng nổi lên, đòi lại gươm báu cho Long Quân. Vua liền trả gươm. Rùa vàng ngậm lấy thanh gươm, lặn xuống đáy hồ. Từ đó, hồ Tả Vọng được đổi tên là hồ Hoàn Kiếm, hay còn gọi là hồ Gươm, để ghi nhớ sự kiện trả gươm thần.

Bài văn mẫu số 5: Sự tích Trầu Cau

Ngày xưa, ở làng nọ có hai anh em mồ côi cha mẹ, tên là Tân và Lang. Hai anh em sống rất tình cảm. Khi lớn lên, Lang thi đỗ và được một thầy đồ nhận làm con nuôi. Thầy có một cô con gái xinh đẹp, đặt tên là Nhan. Thấy Lang siêng năng, thầy gả Nhan cho Lang. Lang nhớ anh, nhờ mẹ nuôi gửi thư về mời anh. Ngày cưới, Tân đến, Lang bận đón khách nên không ra đón anh được. Nhan thấy một người đàn ông lạ đứng trước cửa, tưởng là kẻ trộm nên gọi người nhà đuổi đi. Tân bỏ đi trong lòng uất ức. Chàng đi mãi, đi mãi rồi dừng chân bên bờ sông. Vì quá mệt và buồn, chàng chết biến thành một cây cau. Lang tìm anh mãi không thấy. Chàng cũng đến bên bờ sông, ôm cây cau mà khóc, rồi cũng chết biến thành tảng đá vôi bên gốc cau. Nhan cũng đi tìm chồng. Đến bên bờ sông, nàng dựa vào tảng đá mà khóc đến chết biến thành một cây trầu không. Cả ba hóa thân thành một. Người đời thấy lạ, mang về ăn thử thì thấy vừa cay, vừa chát, vừa ngọt. Khi ăn chung thì đỏ thắm như máu. Từ đó, người đời biết trầu cau là biểu tượng của tình nghĩa anh em và vợ chồng.

Bài văn mẫu số 6: Sự tích Sọ Dừa

Ngày xưa có hai vợ chồng sống ở làng nọ. Họ tốt bụng, chăm chỉ nhưng ngoài năm mươi vẫn chưa có con. Một hôm, bà vợ vào rừng lấy củi, khát quá mà không tìm thấy suối. Bà thấy cái sọ dừa bên gốc cây đựng đầy nước mưa liền bưng lên uống. Về nhà bà có mang và sinh ra một đứa bé không chân không tay tròn như một quả dừa. Bà toan vứt đi thì đứa con bảo mình là người. Thương con, bà giữ lại nuôi và đặt tên nó là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa xin đi chăn bò thuê cho nhà phú ông. Đến mùa gặt, tôi tớ ra đồng làm cả. Ba cô con gái của phú ông thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị tỏ ra coi thường, chỉ có cô út là đối đãi tử tế với Sọ Dừa. Cuối mùa ở, Sọ Dừa xin mẹ đem sính lễ sang hỏi cưới con gái phú ông. Khi trở về, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên khi trong nhà có đầy đủ lễ vật mà phú ông yêu cầu. Trong đám cưới, Sọ Dừa trở lại hình dáng là một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Vợ chồng Sọ Dừa sống rất hạnh phúc. Nhờ học hành chăm chỉ, chàng đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trước khi chia tay, Sọ Dừa đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải luôn mang trong người phòng khi cần dùng đến. Nhân cơ hội, hai cô chị bày mưu, rủ em gái chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Nhờ những vật mà Sọ Dừa đưa cho, cô út thoát chết. Hai vợ chồng Sọ Dừa gặp lại nhau, trở về sống hạnh phúc. Hai cô chị thấy em trở về thì trốn đi biệt xứ.

Bài văn mẫu số 7: Truyền thuyết Mai An Tiêm

Vào thời vua Hùng thứ mười tám, có một chàng trai tên là Mai An Tiêm, là con nuôi của vua. Vua rất mực yêu quý chàng vì chàng tài giỏi và thông minh. Nhưng vì An Tiêm có suy nghĩ “của biếu là của lo, của cho là của nợ”, luôn tự hào về tài năng của mình và không muốn dựa dẫm vào người khác, nên vua Hùng cho rằng chàng kiêu ngạo, thiếu tôn trọng vua. Vua đã ra lệnh đày vợ chồng An Tiêm ra một hòn đảo hoang vắng để xem liệu chàng có sống sót được hay không. Trên đảo, An Tiêm và vợ gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn đủ thứ. Một ngày nọ, một con chim lớn bay ngang qua, đánh rơi xuống một quả màu đen. Vợ chồng An Tiêm nhặt lên, thấy bên trong ruột có màu đỏ, hạt đen, ăn rất ngon và giải khát. Thấy đây là một loại quả quý, An Tiêm dùng hạt để trồng. Sau đó, chàng khắc tên mình lên quả để khi ra biển bán thì người khác biết được nguồn gốc. Tiếng lành đồn xa, những quả dưa hấu của An Tiêm được bán rất chạy, vua Hùng biết chuyện đã cho người ra đón vợ chồng chàng về. An Tiêm đã dạy dân cách trồng loại dưa này. Từ đó, dưa hấu trở thành một loại trái cây quen thuộc của người Việt.

Bài văn mẫu số 8: Sự tích Cây tre trăm đốt

Ngày xưa, ở làng nọ có một chàng trai hiền lành, thật thà tên là Khoai. Chàng đi làm thuê cho một phú ông keo kiệt, tham lam. Chàng yêu cô con gái của phú ông. Phú ông hứa hẹn khi nào chàng làm lụng đủ cho ông một việc thì ông sẽ gả con gái cho. Đến ngày hẹn, phú ông ra điều kiện oái oăm: phải tìm được cây tre trăm đốt để làm sính lễ. Khoai vác dao vào rừng, tìm mãi tìm mãi nhưng không thấy cây tre nào có đủ trăm đốt. Chàng ngồi buồn bã khóc. Bụt hiện lên, hỏi rõ sự tình. Bụt bảo: “Con hãy chặt lấy một trăm đốt tre, rồi niệm câu thần chú “khắc nhập, khắc nhập”. Khoai làm theo lời Bụt. Cả một trăm đốt tre chập lại thành một cây tre dài. Khoai mừng rỡ, vác về nhà phú ông. Phú ông thấy vậy thì vô cùng tức giận, nhưng đã hứa thì không thể nuốt lời. Phú ông giả vờ bảo Khoai rằng mình đã quên cách tách tre ra để vào nhà. Khoai lại niệm thần chú “khắc xuất, khắc xuất”. Tre rời ra thành trăm đốt. Phú ông tức giận, sai người mang tre đi. Họ vừa chạm tay vào tre thì bị dính chặt. Phú ông cũng bị dính vào tre. Khoai lại đọc thần chú “khắc xuất, khắc xuất”, mọi người mới tách ra được. Phú ông thấy Khoai có phép màu nên đã phải gả con gái cho Khoai.

Bài văn mẫu số 9: Sự tích Cây lúa

Thuở xa xưa, lúa không có hạt như bây giờ. Lúa giống như một cái cây, trên đó mọc lên những quả lúa to lớn. Khi thu hoạch, người ta chỉ cần chặt từng quả lúa về ăn. Một năm nọ, trời hạn hán kéo dài, mọi người phải vào rừng kiếm ăn. Một bà mẹ dắt theo một đứa con nhỏ. Vì quá đói, đứa bé cứ quấy khóc không ngừng. Người mẹ đã dỗ dành đứa con, nhưng đứa bé vẫn không chịu nín. Bà mẹ tức giận nói: “Nếu con không chịu nín, mẹ sẽ đánh con cho bỏ ghét!”. Đứa bé sợ hãi nín bặt. Đột nhiên, bà mẹ nhìn thấy một cây lúa mọc lên. Bà đã ăn thử quả lúa, thấy nó ngon. Bà quyết định dỗ con: “Con đừng khóc nữa, mẹ sẽ cho con ăn quả lúa này”. Từ đó, lúa đã trở thành một loại cây lương thực quan trọng của người dân. Nhưng một lần, một bà mẹ tức giận đã bẻ đi một phần của cây lúa. Và từ đó, cây lúa đã không còn có những quả to lớn nữa, mà chỉ còn có những hạt nhỏ bé, và người ta phải xay xát để có được hạt gạo. Câu chuyện này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc quý trọng những hạt lúa, hạt gạo.

Bài văn mẫu số 10: Sự tích Chử Đồng Tử – Tiên Dung

Ngày xưa, ở làng Chử Xá có một chàng trai nghèo tên là Chử Đồng Tử. Chàng hiếu thảo, chăm chỉ, sống bằng nghề đánh cá. Chàng không có quần áo để mặc, chỉ dùng một cái khố che thân. Một hôm, công chúa Tiên Dung, con vua Hùng, dạo chơi trên sông. Chử Đồng Tử thấy vậy, hoảng hốt chạy trốn vào bụi cây, vùi mình dưới cát. Công chúa lên bờ tắm ở đó. Nàng vén khố che thân, không ngờ nàng lại tắm đúng chỗ Chử Đồng Tử đang trốn. Nàng đã choàng lên người chàng một tấm áo choàng. Hai người gặp gỡ và nên duyên vợ chồng. Tiên Dung đã dùng tiền của mình để giúp đỡ dân nghèo. Chử Đồng Tử đi khắp nơi để dạy dân cách trồng lúa, chăn nuôi, làm ăn. Hai người đã làm rất nhiều việc thiện. Một hôm, vua Hùng biết chuyện, cho rằng Tiên Dung lấy người nghèo, làm mất mặt vua nên đã sai quân đến bắt cả hai. Tiên Dung và Chử Đồng Tử bỏ chạy. Họ đã hóa thành hai hòn đá, rồi biến mất. Câu chuyện này ca ngợi tình yêu vượt qua mọi rào cản, và tấm lòng nhân ái, giúp đỡ mọi người của Chử Đồng Tử và Tiên Dung.

Bài văn mẫu số 11: Sự tích Nguồn gốc tiếng Việt

Truyền thuyết kể rằng, từ thuở xa xưa, người Việt đã có tiếng nói riêng. Tiếng nói này rất phong phú, nhưng chưa có chữ viết để lưu lại. Thấy vậy, Vua Hùng thứ nhất đã triệu tập các bậc hiền tài trong cả nước để tìm cách giải quyết. Vua muốn tìm ra một cách để có thể lưu lại tiếng nói của người Việt. Một vị quan tên là Lạc Thiện đã nghĩ ra một cách. Ông đã đi khắp nơi, lắng nghe tiếng nói của mọi người, rồi ghi lại bằng những ký hiệu đặc biệt. Lạc Thiện đã dùng những hình vẽ đơn giản, những đường nét uốn lượn để biểu thị những âm thanh khác nhau. Cuối cùng, ông đã tạo ra một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh, được gọi là chữ Khoa Đẩu. Vua Hùng thấy vậy thì rất vui mừng, đã ban thưởng cho Lạc Thiện và cho in chữ Khoa Đẩu trên các bia đá. Nhưng chữ Khoa Đẩu rất khó học, nên không được sử dụng rộng rãi. Sau đó, một vị quan khác tên là Lạc Việt đã nghĩ ra cách sử dụng những chữ Hán để ghi lại tiếng Việt. Từ đó, chữ Hán đã trở thành chữ viết chính thức của người Việt. Nhưng sau đó, người Việt đã tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng nói của mình. Câu chuyện này cho thấy quá trình phát triển của chữ viết của người Việt, và thể hiện sự tự hào về nền văn hóa, ngôn ngữ của dân tộc.

Bài văn mẫu số 12: Sự tích Lòng tham

Ngày xưa, có một con quạ đang bay trên trời thì thấy một con chim đang đậu trên cành cây. Con chim này đang giữ một miếng thịt lớn. Con quạ nghĩ: “Nếu mình có được miếng thịt đó, mình sẽ không phải đi kiếm ăn nữa”. Quạ bay xuống, đậu gần con chim. Nó nói với con chim: “Bạn hát hay quá! Bạn có thể hát cho tôi nghe được không?”. Con chim rất vui, bèn mở miệng để hát. Nhưng vừa mở miệng, miếng thịt rơi xuống. Quạ nhanh chóng lao xuống, lấy miếng thịt bay đi. Con chim rất buồn, nhưng đã quá muộn. Con quạ bay về tổ, nhưng vì quá tham lam, nó không thể ăn hết miếng thịt. Nó quyết định cất miếng thịt vào một cái hang. Từ đó, quạ không cần đi kiếm ăn nữa. Nhưng một hôm, quạ đi ngang qua một cái hang, thấy một miếng thịt lớn hơn. Nó lại tham lam, lấy miếng thịt đó mang về tổ. Từ đó, quạ cứ đi kiếm miếng thịt lớn hơn, rồi cất vào cái hang. Hang của quạ càng ngày càng đầy. Nhưng quạ không thể ăn hết. Câu chuyện này nhắc nhở chúng ta về lòng tham lam.

Bài văn mẫu số 13: Truyền thuyết Rùa Vàng

Hồ Gươm ngày nay có tên gọi là Hoàn Kiếm, nghĩa là trả lại gươm. Nhưng ít ai biết rằng, một truyền thuyết khác kể về một con Rùa Vàng sống trong hồ. Thời Lê Lợi, khi đất nước đã độc lập, vua đi thuyền dạo chơi trên hồ Tả Vọng. Bỗng một con Rùa Vàng nổi lên, nói với vua: “Bệ hạ đã dùng gươm thần để dẹp giặc, giờ đã đến lúc trả lại gươm cho Long Quân”. Vua Lê Lợi ngạc nhiên nhưng vẫn làm theo lời Rùa Vàng. Vua trả gươm cho Rùa Vàng. Rùa Vàng nhận lấy gươm, lặn xuống hồ. Từ đó, hồ Tả Vọng được đổi tên thành hồ Gươm, hay hồ Hoàn Kiếm, để ghi nhớ sự kiện này.

Bài văn mẫu số 14: Truyền thuyết Dưa Hấu

Ngày xưa, có một chàng trai tên là An Tiêm. Chàng được vua Hùng nhận làm con nuôi. Chàng rất tài giỏi và thông minh, nhưng lại có tính kiêu ngạo, cho rằng mọi thứ đều do công sức của mình mà có. Vua Hùng thấy vậy thì không hài lòng, quyết định thử thách chàng. Vua đã đày vợ chồng An Tiêm ra một hòn đảo hoang vắng, không có người ở. Trên đảo, hai vợ chồng sống rất khổ sở, thiếu thốn đủ thứ. Một ngày nọ, một con chim bay ngang qua, đánh rơi xuống một hạt quả. An Tiêm nhặt lấy, trồng xuống. Quả lớn lên rất nhanh, bên trong ruột đỏ, hạt đen, ăn rất ngon. An Tiêm lấy hạt để trồng. Sau đó, chàng lấy quả đi bán. Vua Hùng biết chuyện, thấy An Tiêm đã thay đổi, không còn kiêu ngạo nữa, nên đã cho người đón hai vợ chồng về. An Tiêm đã dạy dân cách trồng dưa hấu, và từ đó, dưa hấu đã trở thành một loại trái cây quen thuộc của người Việt. Câu chuyện này ca ngợi sự chăm chỉ, cần cù, và lòng dũng cảm của người Việt.

Bài văn mẫu số 15: Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ

Truyền thuyết kể rằng, từ thuở xa xưa, đất nước ta đã có một vị thần, đó là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ. Thần vốn là rồng, sống dưới nước. Một hôm, thần gặp Âu Cơ, một nàng tiên xinh đẹp, sống trên núi. Hai người kết duyên vợ chồng và sinh ra một cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai khôi ngô, tuấn tú. Nhưng vì Lạc Long Quân thuộc nòi rồng, sống dưới nước, còn Âu Cơ thuộc nòi tiên, sống trên cạn, nên hai người không thể sống cùng nhau mãi. Họ quyết định chia nhau cai quản đất nước. Lạc Long Quân đưa năm mươi người con xuống biển, còn Âu Cơ đưa năm mươi người con lên núi. Người con cả được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu và đặt tên nước là Văn Lang. Câu chuyện này giải thích nguồn gốc của người Việt, thể hiện tinh thần đoàn kết và tình cảm gắn bó của dân tộc, tự hào là “con Rồng cháu Tiên”.

Bài văn mẫu kể lại một truyền thuyết ngắn gọn được thực hiện bởi vanmau.vn. Các trang khác lấy bài xin ghi nguồn.

9 lượt xem | 0 bình luận

Chức năng bình luận hiện chỉ có thể hoạt động sau khi bạn đăng nhập!

Thảo luận

https://vanmau.vn
Xuân Hoa 3 ngày trước
Tôi rất thích trí tưởng tượng của bạn
https://vanmau.vn
Xuân Hoa 3 ngày trước
Bài 6 ước mơ làm bác sỹ rất ý nghĩa
https://vanmau.vn
Camellia 3 ngày trước
Em thích bài số 17
https://vanmau.vn
Camellia 3 ngày trước
Thích nhất bài văn mẫu số 5
https://vanmau.vn
Camellia 3 ngày trước
Hài hước quá, rất hay ạ
https://vanmau.vn
Phạm Yến 4 ngày trước
Em cảm ơn có tài liệu tham khảo rồi
https://vanmau.vn
Phạm Yến 4 ngày trước
Đúng bài em đang cần hí hí
https://vanmau.vn
Hoàng Lan 4 ngày trước
Nhớ trước làm chủ đề văn mẫu này tui được 8 điểm nhưng viết không hay như này
https://vanmau.vn
Hoàng Lan 4 ngày trước
Hay và bổ ích
https://vanmau.vn
Thúy Vân 4 ngày trước
Bài hay nè
https://vanmau.vn
Thúy Vân 1 tuần trước
Bài văn mẫu hay, rất hữu ích
https://vanmau.vn
Thúy Vân 1 tuần trước
Bài viết hay
https://vanmau.vn
Vũ Ngọc 1 tuần trước
Bài hay quá, cảm ơn bạn chia sẻ.